Khớp khuỷu nhân tạo (KKNT) được tạo ra với sự phát triển nhanh chóng của kỹ thuật cũng như các vật liệu khớp nhân tạo, các bệnh nhân bị cứng khớp, dính khớp khuỷu hoàn toàn, viêm khớp dạng thấp… đã có hy vọng phục hồi lại chức năng của các khớp xương và tránh khỏi nguy cơ tàn phế.
1. Lịch sử phát triển thay khớp khuỷu nhân tạo
Phẫu thuật can thiệp vào khớp khuỷu lần đầu tiên được thực hiện bởi Ambroise Pare từ thế kỷ 16, ông đã điều trị cho 1 ca nhiễm trùng khớp khuỷu bằng cách cắt bỏ một phần xương cánh tay và xương trụ thay vì cắt cụt toàn bộ chi như thường quy trước đấy. Trong nỗ lực cải tiến phẫu thuật khớp khuỷu, các kỹ thuật cắt xương-màng xương, cắt lọc tổ chức phần mềm, tạo khớp giả, chuyến vị phần mềm che phủ đầu xương… lần lượt ra đời sau đó. Tuy nhiên, những kỹ thuật này hầu như chỉ để giải quyết vấn đề đau của người bệnh chứ không thế phục hồi lại được chức năng khớp khuỷu. Đen thế kỷ 19, cùng với sự phát triển của gây mê hồi sức cũng như khoa học kỹ thuật, thay vì cắt bỏ xương, ý tưởng thay khớp khuỷu nhân tạo dần dần hình thành và phát triển thành 2 hướng chính mà giá trị của chúng vẫn còn đến ngày nay. Hướng thứ nhất là “tái tạo giải phẫu”, hướng tới tái tạo cấu trúc giống như hình thái khớp nguyên thủy mà đại diện hiện tại là trường phái thay “khớp rời”. Hướng thứ hai là “tái tạo chức năng”, nghĩa là việc thay khớp là để phục hồi lại được chức năng vận động chứ không cần thiết phải tái tạo như giải phẫu tự nhiên, đại diện hiện tại là trường phái phẫu thuật thay “khớp liền”.
Năm 1925, lần đầu tiên trên thế giới, Robineau thay khớp khuỷu cho một bệnh nhân sau cắt bỏ đầu xa xương cánh tay. Thiết kế khớp nhân tạo làm từ kim loại và cao su lưu hoá. Robineu thiết kế khớp theo trường phái “tái tạo giải phẫu”.
Năm 1941, Boerema đánh dấu cho sự bắt đầu của trường phái “tái tạo chức năng” bằng phẫu thuật sử dụng khớp khuỷu nhân tạo dạng bản lề, khớp làm hoàn toàn bằng kim loại.
Năm 1947, Mellen và Phalen thay khớp khuỷu bán phần (chỉ thay đầu xa xương cánh tay) điều trị các trường hợp can lệch hoặc khớp giả đầu dưới xương cánh tay.
Năm 1952, Venable báo cáo ca lâm sàng thay khớp khuỷu loại “thiết kế riêng” làm từ hợp kim Vitallium để điều trị gãy phức tạp đầu xa xương cánh tay cho kết quả tốt sau thời gian theo dõi sau 15 tháng. Từ đây, phẫu thuật thay khớp khuỷu không chỉ tiến hành để điều trị bệnh lý mà còn chỉ định cho các trường hợp chấn thương mới.
Vào thập kỉ 70, FD A đã cho phép sử dụng xi măng sinh học trong các phẫu thuật thay khớp. Tác giả Dee thiết kế khớp khuỷu nhân tạo dạng bản lề và sử dụng xi măng sinh học cố định chuôi thay vì sử dụng vít chốt ngang như các thiết kế trước đó, loại khớp này được coi như là dấu mốc cho sự bắt đầu của thế hệ khớp khuỷu hiện đại đầu tiên (Hình 1.10). Năm 1972, Dee báo cáo kết quả 12 ca với thời gian theo dõi trung bình 14 tháng, theo tiêu chỉ giảm đau và biên độ vận động thì có 10/14 bệnh nhân đạt rất tốt.
Những kết quả khả quan ban đầu của phẫu thuật thay thế khớp khuỷu đã dẫn đến cuộc chạy đua ra mắt các sản phẩm KKNT bản quyền trên thế giới. Thời kỳ tiếp theo chứng kiến cảnh nở rộ các thiết kế KKNT khác nhau, từ dạng khớp có chuôi tới dạng khớp thay thế bề mặt khớp đơn thuần. Tuy nhiên, tỷ lệ biến chứng chung sau phẫu thuật khá cao, có báo cáo lên đến 57%. Các khớp “tái tạo giải phẫu” yêu cầu sự toàn vẹn về hệ thống dây chằng xung quanh mới có thể đạt hiệu quả tốt, tuy nhiên thời kì này còn thiếu những phương tiện chẩn đoán hình ảnh trước mô cũng như kỹ thuật phẫu tích của các tác giả chưa hoàn thiện vì thế khớp nhân tạo thường bị mất vững và trật khớp. Khớp “tái tạo chức năng” thời kỳ đầu cũng do chưa nắm rõ về cơ sinh học của khớp khuỷu, các nhà sản xuất chỉ tái tạo lại chuyển động gấp duỗi đơn thuần dẫn tới chuôi khớp nhanh chóng bị long và thất bại. Từ 1973 đến 1977, 80 ca thay khớp khuỷu với các thiết kế kiểu Mayo (1973) hoặc Coonrad (1971) được thực hiện tại Mayo Clinic thì 19 trường họp (24%) phải thay lại trong đó 11 trường hợp do lỏng, tỷ lệ biến chứng chung là 55%.
Với sự ra đời của “thế hệ khớp khuỷu thứ hai” (khớp bản lề bán ràng buộc) và “thế hệ khớp khuỷu thứ ba” (khớp lai), tuổi thọ của khớp khuỷu nhân tạo đã có cải thiện rõ rệt trong suốt 4 thập kỷ qua với tỷ lệ tồn tại trên 5 năm đạt trên 90%. Tuy vậy, một số hạn chế sau mổ như chỉ được phép nâng vật nặng dưới 3kg, không được chơi lại các môn thể thao… vẫn là những yếu tố ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng cuộc sống của bệnh nhân, vì thế ngày nay các thiết kế khớp khuỷu nhân tạo mới vẫn đang không ngừng được nghiên cứu và hoàn thiện thêm
2. Các thuật ngữ về các loại KKNT:
- Bản lề (Hinged): Khớp bản lề được định nghĩa là loại khớp chỉ cho phép chuyển động trên một mặt phẳng, sự chuyển động giữa 2 xương diễn ra trên một trục xoay (tương tự như bản lề cửa). Khớp trụ-cánh tay là khớp dạng bản lề không hoàn toàn vì ngoài chuyển động theo trục gấp duỗi còn cho phép các động tác mở góc trong – ngoài (valgus – varus) và xoay trong – ngoài (internal; external rotation) ở mức độ nhất định.
- Khớp liền (Linked): Là loại KKNT có cấu phần trụ và cấu phần cánh tay liên kết với nhau; thiết kế của khớp liền đều là kiểu bản lề.
- Khớp rời (Unlinked): Là loại KKNT có cấu phần trụ và cấu phần cánh tay độc lập với nhau.
- Khớp lai (Lmkable/Convertible): Là loại khớp có thể chuyển đổi giữa 2 dạng khớp rời và khớp liền. Tuỳ theo mức độ ràng buộc giữa các cấu phần khớp khi vận động mà ta có thể chia ra thành các nhóm KKNT là:
- Ràng buộc (Constrained)
- Bán ràng buộc (Semi-constrained)
- Không ràng buộc (Unconstrained), thực chất là ràng buộc tối thiểu (Minimally-constrained)Xem thêm: chỉ định thay khớp khuỷu tay nhân tạo
Tác giả
Chủ biên: GS.TS. Trần Trung Dũng
Biên soạn: ThS.BS. Trần Quyết, BSCKII. Phạm Trung Hiếu, ThS.BS. Nguyễn Trần Quang Sáng, BSCKII. Vũ Tú Nam, ThS.BSNT. Võ Sĩ Quyền Năng,ThS.BSNT. Trần Đức Thanh, ThS.BSNT. Phan Khoa Nguyên BSCKII. Nguyễn Văn Vỹ
Thư ký: ThS.BS. Trần Quyết
Leave a Reply