Xét về nguy cơ cho dân số, tăng huyết áp (THA) là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất có thể thay đổi được đối với bệnh tim mạch ở giai đoạn sớm; THA phổ biến hơn hút thuốc lá, rối loạn lipid máu và đái tháo đường, là những yếu tố nguy cơ khác. Tăng huyết áp chiếm khoảng 54% tổng số ca đột quỵ và 47% tổng số biến cố bệnh tim thiếu máu cục bộ trên toàn cầu. Bài viết này sẽ đề cập đến tác động của tăng huyết áp đối với nguy cơ rối loạn tim mạch và tác động của nguy cơ tim mạch đối với các quyết định trong điều trị tăng huyết áp.
1. Tác động của tăng huyết áp đối với bệnh tim mạch
Tăng huyết áp làm tăng nguy cơ mắc nhiều bệnh tim mạch, bao gồm đột quỵ, bệnh động mạch vành, suy tim, rung nhĩ, phình động mạch chủ bụng và bệnh mạch máu ngoại vi.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra nguy cơ mắc cả bệnh mạch vành và đột quỵ tăng dần khi huyết áp tăng trên 115/75 mmHg. Đối với mỗi 20/10 mmHg huyết áp tâm thu/tâm trương tăng lên, tỷ lệ tử vong liên quan đến bệnh mạch vành và đột quỵ sẽ tăng gấp đôi. Tuy nhiên, những quan sát này không chứng minh được mối quan hệ nhân quả, vì tăng huyết áp có thể là dấu hiệu của các yếu tố nguy cơ khác như tăng trọng lượng cơ thể, có liên quan đến rối loạn lipid máu, không dung nạp glucose và hội chứng chuyển hóa. Bằng chứng tốt nhất về vai trò nguyên nhân của việc tăng huyết áp trong các biến chứng tim mạch là sự cải thiện kết quả khi huyết áp giảm khi điều trị hạ huyết áp.
Sự gia tăng nguy cơ tim mạch chủ yếu được mô tả dưới dạng tăng huyết áp tâm thu ở người lớn tuổi và tăng cả huyết áp tâm thu và tâm trương ở những người trẻ tuổi. Áp lực mạch, hay Hiệu áp, là sự khác biệt giữa huyết áp tâm thu và tâm trương và được xác định chủ yếu bởi độ cứng của động mạch lớn, cũng là một yếu tố dự báo nguy cơ, đặc biệt ở người lớn tuổi. Ngược lại, tăng huyết áp tâm trương đơn độc, trong đó huyết áp tâm trương tăng nhưng huyết áp tâm thu bình thường, không phổ biến ở người lớn và không liên quan đến nguy cơ tim mạch cao hơn.
Các phép đo huyết áp ở bên ngoài phòng khám có thể dự đoán nguy cơ tim mạch tốt hơn so với các phép đo tại phòng khám, một thực tế đã dẫn đến tầm quan trọng ngày càng tăng của việc theo dõi huyết áp tại nhà và tại nhà (ABPM) để chẩn đoán tăng huyết áp.
2. Tác động của tăng huyết áp đối với các rối loạn tim mạch cụ thể
Mức độ liên quan giữa tăng huyết áp và bệnh tim mạch thay đổi tùy theo từng bệnh tim mạch cụ thể. Ví dụ, tăng huyết áp (được định nghĩa là huyết áp ≥140/90 mmHg) làm tăng nguy cơ suy tim và mắc bệnh mạch vành. Tuy nhiên, nguy cơ suy tim tăng ở mức độ cao hơn so với nguy cơ của bệnh mạch vành.
Bằng chứng tốt nhất về vai trò nguyên nhân của việc tăng huyết áp trong các biến chứng tim mạch là sự cải thiện kết quả khi huyết áp giảm khi điều trị hạ huyết áp.
3. Các tác động phụ của tăng huyết áp và các yếu tố nguy cơ khác
Các yếu tố nguy cơ tim mạch khác nhau có ảnh hưởng lên khả năng phát triển bệnh mạch vành và các kết cục tim mạch khác. Ngoài tăng huyết áp, các yếu tố nguy cơ chính là tuổi già, tăng cholesterol toàn phần và lipoprotein tỷ trọng thấp (LDL), cholesterol lipoprotein tỷ trọng cao (HDL) thấp, đái tháo đường và hút thuốc lá. Do đó, những bệnh nhân bị tăng huyết áp đáng kể nhưng không có hoặc có ít yếu tố nguy cơ khác có nguy cơ tổng thể tương đối thấp hơn so với những bệnh nhân ít tăng huyết áp nhưng có nhiều yếu tố nguy cơ khác.
Nhiều mô hình dự đoán rủi ro sử dụng các yếu tố này và các yếu tố rủi ro khác đã được phát triển, đáng chú ý nhất là thang điểm rủi ro Framingham. Khả năng của tiêu chí rủi ro Framingham để dự đoán bệnh tim mạch đã được sử dụng rộng rãi, nhưng mức độ rủi ro tim mạch liên quan đến tiêu chí rủi ro Framingham có thể không áp dụng cho tất cả các nhóm bệnh nhân. Các yếu tố rủi ro khác đã được đề xuất để cải thiện dựa trên đánh giá rủi ro Framingham, bao gồm protein phản ứng C, BNP, siêu âm tim và các xét nghiệm khác để phát hiện bệnh của mạch máu. Tuy nhiên, hiện tại chưa có phương pháp nào được chứng minh là bổ sung đáng kể vào thang điểm Framingham, và chúng có thể không hiệu quả về mặt chi phí.
Các mô hình dự đoán rủi ro khác cũng được sử dụng, bao gồm một mô hình được phát triển bởi Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ (AHA) và Hội Tim mạch học Hoa Kỳ (ACC) kết hợp dữ liệu từ nhiều nhóm bệnh nhân và bao gồm nguy cơ mắc tất cả các biến cố tim mạch, bao gồm đột quỵ, thay vì chỉ bệnh tim mạch vành.
4. Tổng kết
- Xét về nguy cơ do dân số quy định, tăng huyết áp là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất đối với bệnh tim mạch sớm; nó quan trọng hơn hút thuốc lá, rối loạn lipid máu và đái tháo đường, là những yếu tố nguy cơ chính khác
- Tăng huyết áp làm tăng nguy cơ mắc nhiều bệnh tim mạch, bao gồm đột quỵ, bệnh động mạch vành, suy tim, rung tâm nhĩ, phình động mạch chủ bụng và bệnh mạch máu ngoại vi. Nguy cơ mắc cả bệnh mạch vành và đột quỵ tăng dần khi huyết áp tăng dần trên 115/75 mmHg, như được chỉ ra trong nhiều nghiên cứu dịch tễ học. Tuy nhiên, bằng chứng tốt nhất về vai trò nguyên nhân của việc tăng huyết áp trong các biến chứng tim mạch là sự cải thiện kết quả điều trị bằng thuốc hạ huyết áp
- Mức độ liên quan giữa tăng huyết áp và bệnh tim mạch thay đổi tùy theo kết quả tim mạch cụ thể. Sử dụng dữ liệu từ nhiều nghiên cứu, việc giảm huyết áp tâm thu 5 và 10 mmHg được dự đoán sẽ giúp giảm nguy cơ tương đối 10 và 20% trong các biến cố tim mạch lớn, tương ứng, bao gồm giảm đáng kể nguy cơ đột quỵ, bệnh mạch vành, suy tim và bệnh tim mạch. cái chết.
- Các yếu tố nguy cơ tim mạch khác nhau có tác động phụ lên khả năng phát triển bệnh tim mạch vành và các hậu quả tim mạch khác. Nhiều mô hình dự đoán rủi ro sử dụng các yếu tố này và các yếu tố rủi ro khác đã được phát triển, bao gồm một mô hình được phát triển bởi Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ (AHA) và Đại học Tim mạch Hoa Kỳ (ACC) kết hợp dữ liệu từ nhiều nhóm bệnh nhân và bao gồm nguy cơ của tất cả các biến cố tim mạch, bao gồm đột quỵ, chứ không phải bệnh tim mạch vành đơn thuần
- Lợi ích mà bệnh nhân nhận được từ việc hạ huyết áp phụ thuộc vào sự cân bằng giữa việc giảm tuyệt đối (chứ không phải tương đối) nguy cơ dẫn đến kết quả bất lợi và tác hại tiềm ẩn cũng như gánh nặng của liệu pháp hạ huyết áp. Chúng tôi và một số tổ chức chuyên nghiệp khuyến cáo rằng nên kết hợp các dấu hiệu nguy cơ tim mạch tổng thể trong các quyết định điều trị.
Leave a Reply