Khi nào bắt đầu điều trị hạ huyết áp khi mang thai

Quyết định điều trị tăng huyết áp khi mang thai cần cân nhắc giữa nguy cơ và lợi ích cho cả mẹ và thai nhi. Mức độ huyết áp và những rủi ro trực tiếp đối với sức khỏe của người mẹ là những cân nhắc ban đầu quan trọng nhất.

1. Đối với tất cả bệnh nhân bị tăng huyết áp nặng

Có sự đồng thuận rằng tăng huyết áp nặng khi mang thai/sau sinh  (được định nghĩa là huyết áp tâm thu ≥160 mmHg và/hoặc huyết áp tâm trương ≥110 mmHg) được chẩn đoán xác định bằng đo huyết áp lặp lại trong vòng 15 phút nên được điều trị để giảm huyết áp. Nguy cơ đột quỵ, suy tim và các biến chứng nghiêm trọng khác ở mẹ. Hướng dẫn của Hội Sản phụ khoa Hoa Kỳ (ACOG) nêu rõ rằng những bệnh nhân này nên dùng thuốc hạ huyết áp càng sớm càng tốt sau khi đáp ứng các tiêu chuẩn chẩn đoán tăng huyết áp nặng khởi phát cấp tính và trong vòng 30 đến 60 phút sau khi chẩn đoán.

Cần lưu ý rằng tăng huyết áp tâm thu nặng có thể dự báo nhiều biến cố não bất lợi hơn là tăng huyết áp tâm trương nặng. Trong một nghiên cứu hồi cứu gồm 26 trường hợp tử vong do đột quỵ liên quan đến tiền sản giật/sản giật mà có dữ liệu huyết áp trước khi xảy ra biến cố, huyết áp tâm thu >160 mmHg trong 96% trường hợp (25/26), trong khi huyết áp tâm trương là ≥110 mmHg trong 65% trường hợp (17/26) và >105 mmHg trong 73% trường hợp (19/26).

khi-nao-bat-dau-dieu-tri-ha-huyet-ap-khi-mang-thai
Khi nào điều trị tăng huyết áp khi mang thai

2. Bệnh nhân tăng huyết áp không nghiêm trọng (mạn tính hoặc liên quan đến thai kỳ)

Cách tiếp cận điều trị bằng thuốc đối với tăng huyết áp mạn tính không nghiêm trọng ít đồng nhất hơn, vì lợi ích và nguy cơ tiềm ẩn của việc điều trị trong thai kỳ vẫn chưa rõ ràng. Mặc dù một số tổ chức chuyên ngành trên toàn thế giới đã tán thành việc bắt đầu/tiếp tục điều trị ở mức gần với mức được khuyến nghị ở những người không mang thai (ví dụ: 140/90 mmHg), nhưng những tổ chức khác lại không tán thành phương pháp này.

Một số phân tích tổng hợp về các thử nghiệm ngẫu nhiên có điều trị so với không điều trị cho bệnh nhân mang thai bị tăng huyết áp không nghiêm trọng (mạn tính hoặc liên quan đến thai kỳ) được công bố đã cung cấp những phát hiện chính sau đây:

  • Biến chứng thai kỳ – Điều trị tăng huyết áp nói chung không làm giảm tỷ lệ tiền sản giật, tử vong chu sinh, sinh non hoặc nhau bong non, mặc dù sự không đồng nhất trong các thiết kế nghiên cứu đã hạn chế việc giải thích những phát hiện này. Điều trị hạ huyết áp không làm tăng tần suất sinh con nhỏ so với tuổi thai, đây là một vấn đề đáng lo ngại vì sự phát triển tối ưu của thai nhi phụ thuộc một phần vào sự tưới máu nhau thai.
  • Mẹ cao huyết áp nặng – Tất cả các thuốc hạ huyết áp, so với giả dược, đều làm giảm tỷ lệ mắc bệnh cao huyết áp nặng từ 40 đến 70 phần trăm. Tăng huyết áp nặng có liên quan đến bệnh suất và tử vong nghiêm trọng ở mẹ, và việc phòng ngừa và điều trị tăng huyết áp nặng được hầu hết các hiệp hội chuyên gia thừa nhận là quan trọng và có lợi. Trong các phân tích tổng hợp, việc giảm tỷ lệ tăng huyết áp nặng không liên quan đến giảm đột quỵ, rất có thể là do tần suất đột quỵ cực kỳ thấp trong quần thể nghiên cứu, điều trị tăng huyết áp nặng khi được chẩn đoán và thiếu khả năng phát hiện một sự khác biệt trong kết quả này.

3. Quyết định điều trị tăng huyết áp khi mang thai

Khi quyết định điều trị tăng huyết áp nhẹ (được định nghĩa ở đây là huyết áp tâm thu từ 140 đến 149 mmHg và/hoặc huyết áp tâm trương từ 90 đến 99 mmHg) hay tăng huyết áp vừa phải (được định nghĩa ở đây là huyết áp tâm thu từ 150 đến 159 mmHg và/hoặc huyết áp tâm trương huyết áp từ 100 đến 109 mmHg), cần xem xét nguy cơ tiềm ẩn phát triển tăng huyết áp nặng, lợi ích tiềm năng của việc ngăn ngừa tăng huyết áp nặng, các bệnh và triệu chứng đi kèm của bệnh nhân (ví dụ: nhức đầu, rối loạn thị giác).

  • Bệnh nhân mang thai bị tăng huyết áp mạn tính không nghiêm trọng (dựa trên tiền sử bệnh hoặc huyết áp tâm thu ≥140 mmHg hoặc huyết áp tâm trương ≥90 mmHg hoặc cả hai trong ít nhất hai lần cách nhau ít nhất 4 giờ trước 20 tuần tuổi thai) – Lựa chọn thuốc, liều lượng và huyết áp mục tiêu cũng giống như điều trị duy trì sau khi điều trị cấp tính bệnh tăng huyết áp nặng
  • Bệnh nhân bị tăng huyết áp không nghiêm trọng liên quan đến thai kỳ – Đối với bệnh nhân bị tăng huyết áp mới khởi phát sau 20 tuần tuổi thai (nghĩa là tăng huyết áp thai kỳ hoặc tiền sản giật) với huyết áp tâm thu từ 150 đến 159 mmHg và/hoặc huyết áp tâm trương từ 100 đến 109 mmHg kéo dài sau nhiều lần điều trị nội trú hoặc sau khi đo huyết áp tại phòng khám, liệu pháp hạ huyết áp hiện có được đề nghị bắt đầu (hoặc tăng cường) nếu việc sinh có thể bị trì hoãn trong vài ngày hoặc vài tuần. Lựa chọn thuốc, liều lượng và huyết áp mục tiêu cũng giống như điều trị duy trì sau khi điều trị cấp tính bệnh tăng huyết áp nặng.
  • Đối với những bệnh nhân bị tăng huyết áp mới khởi phát sau 20 tuần tuổi thai (nghĩa là tăng huyết áp thai kỳ hoặc tiền sản giật) và huyết áp tâm thu từ 140 đến 149 và/hoặc huyết áp tâm trương từ 90 đến 99 mmHg, cần đặc biệt cân nhắc bắt đầu điều trị bằng thuốc hạ huyết áp nếu khả năng sinh là rất cao, bị trì hoãn trong vài ngày hoặc vài tuần. Quyết định bắt đầu điều trị này dựa trên các yếu tố của từng bệnh nhân và quá trình ra quyết định chung. Lựa chọn thuốc, liều lượng và huyết áp mục tiêu cũng giống như điều trị duy trì sau khi điều trị cấp tính bệnh tăng huyết áp nặng.

Cần xem xét bắt đầu điều trị ở mức huyết áp thậm chí còn thấp hơn ở thanh thiếu niên trước khi sinh và những bệnh nhân khác có huyết áp ban đầu thấp (dưới 90/75 mmHg) và ở những bệnh nhân có dấu hiệu mất bù tim hoặc các triệu chứng não (ví dụ: nhức đầu, rối loạn thị giác, khó chịu ở ngực, khó thở, lú lẫn). Nếu huyết áp tăng trong thời gian ngắn, các triệu chứng (đặc biệt là đau đầu) có thể xảy ra ngay cả ở bệnh nhân trẻ tuổi với huyết áp <150/100 mmHg.


Posted

in

,

by

Tags:

Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *