Tăng sống hàm theo chiều ngang – Bàn luận vấn đề.

Tiêu xương theo chiều ngoài-trong là một trong những di chứng thường gặp sau nhổ răng. Mức độ tiêu xương có thể nặng nề hơn trong trường hợp sau khi nhổ răng bị bệnh nha chu tiến triển hoặc có tổn thương quanh chóp. Thiếu hổng nghiêm trọng này sẽ dẫn đến các biến chứng trong quá trình đặt implant, chẳng hạn như không thể đặt implant vào vị trí lý tưởng hoặc lộ ren. Tăng sống hàm theo chiều ngang có thể được sử dụng để tạo ra mô cứng phía trên sống hàm còn lại theo chiều ngoài-trong nhằm khắc phục tình trạng trên. Cùng tìm hiểu và bàn luận về vấn đề này.

1. Thời điểm thực hiện phẫu thuật tăng sống hàm theo chiều ngang?

Tiêu xương theo chiều ngoài-trong là một trong những di chứng thường gặp sau nhổ răng. Mức độ tiêu xương có thể nặng nề hơn trong trường hợp sau khi nhổ răng bị bệnh nha chu tiến triển hoặc có tổn thương quanh chóp. Thiếu hổng nghiêm trọng này sẽ dẫn đến các biến chứng trong quá trình đặt implant, chẳng hạn như không thể đặt implant vào vị trí lý tưởng hoặc lộ ren. Tăng sống hàm theo chiều ngang có thể được sử dụng để tạo ra mô cứng phía trên sống hàm còn lại theo chiều ngoài-trong nhằm khắc phục tình trạng trên. Tăng sống hàm theo chiều ngang có thể được thực hiện trước khi đặt implant như một phẫu thuật riêng hoặc tại thời điểm đặt implant.

2. Tổng quan kỹ thuật và so sánh

  • Xương ghép hạt có/không có yếu tố tăng trưởng kết hợp màng ngăn (Hình dưới đây).
tang-song-ham-theo
Tái tạo xương có hướng dẫn (GBR): (A) rạch; (B) hình dạng của thiếu hồng; (C, D) khoan xương vỏ ở mào xương; (E) xương ghép dị loại kết hợp với màng tiêu collagen tại thiếu hồng; (F) khâu.
Sau giai đoạn điều trị ban đầu, bệnh nhân được phẫu thuật tăng sống hàm theo chiều ngang. Đánh giá lâm sàng cho thấy vùng mất răng bị thiếu hồng chiều ngang trầm trọng và thiếu hồng nhẹ theo chiều dọc (loại III Seibert). Không đủ chiều rộng ngoài-trong để đảm bảo đặt implant lý tưởng. Sau khi gây tê tại chỗ vị trí phẫu thuật bằng thuốc tê (Marcaine® 0.5% và Septocaine® 4%), tạo đường rạch giữa mào xương ở vùng mất răng #44 – #46, kéo dài sang hai răng kế cận #43 và #47 (Hình A). Lật vạt niêm mạc màng xương phía ngoài và phía trong, vượt qua đường nối niêm mạc-nướu. Chúng tôi quan sát thấy một lõm lớn ở mặt ngoài rằng #44 và #45 (Hình B). Mào xương được khoan xương vỏ bằng mũi carbide tròn #1/2 để cho phép tế bào đi vào giá thể xương ghép (Hình C và D). Tạo cửa sổ màng xương ở vạt mặt ngoài để cho phép vạt đủ di động và đóng kín ban đầu mà không gây căng. Đặt màng tiêu collagen (RCM6 – ACE®) 30 mm x 40 mm lên thiếu hổng, phủ ngoài thiếu hồng ít nhất 3 mm theo mọi hướng (Hình E). Xương ghép dị loại có nguồn gốc từ bò (Bio-Oss®) được hòa với nước muối vô trùng và nhồi vào thiếu hổng (Hình E). Đặt màng tiêu lên xương ghép. Vạt được tái định vị phía trên màng, và khâu mũi rời đơn bằng chỉ Vicryl 5/O (Hình F). Điều này giúp đóng kín vạt ban đầu. Cho bệnh nhân chườm đá sau phẫu thuật.
  • Xương khối tự thân (ví dụ, cằm, cành đứng) có hoặc không có màng.
  • Xương khối đồng loại (xương đông khô) có hoặc không có màng.
  • Kỹ thuật chia sống hàm.

Sự khác nhau giữa vật liệu xương ghép tạo xương, dẫn xương, và cảm ứng xương:

  • Đối với vật liệu tạo xương: mô “ghép tự thân sống” hoặc chất có tiềm năng kích thích sự tăng trưởng hay sửa chữa xương.
  • Vật liệu dẫn xương: vật liệu ghép cung cấp khung cho tế bào di cư (ví dụ, FDBA).
  • Vật liệu cảm ứng xương: kích thích sự tạo xương trong mô xung quanh nhờ sự hiện diện của vật liệu ghép có khả năng “kích tạo mô” – thường có yếu tố tăng trưởng (ví dụ, khung xương khử khoáng).

Ghép xương và màng sinh học

Màng có tác dụng như hàng rào vật lý khi đặt trên xương ghép, ngăn ngừa sự xâm lấn của các tế bào không tạo xương vào khoảng không gian được bảo vệ bởi màng (Hình E trên).

Màng còn cho phép các tế bào tạo xương tăng trưởng ở bên trong. Ổn định miếng ghép/lành thương thứ phát. Các nghiên cứu cho thấy màng không tiêu ePTFE nên được vùi hoàn toàn trong 6-9 tháng để cho phép sự lành thương và tăng trưởng xương bình thường.

Đối với ghép xương:

  • Xương tự thân: xương được lấy từ một vùng của bệnh nhân và cấy vào vùng khác trên cùng bệnh nhân đó.
  • Xương đồng loại: xương cùng loài, khác cá thể. Xương từ ngân hàng mô (xương của tử thi).
  • Xương dị loại: xương từ những loài khác,
  • Xương tổng hợp: vật liệu tổng hợp được sử dụng làm vật liệu ghép xương.

3. Nguy cơ và biến chứng của thủ thuật trên bệnh nhân này

  • Phá hủy vạt. Cần tránh làm mỏng vạt quá mức hoặc tạo đường rạch màng xương quá sâu. Phá hủy vật sẽ dẫn tới lành thương mô mềm không đầy đủ và gây tổn hại đến sự cung cấp mạch máu.
  • Các biến chứng mạch-thần kinh. Vị trí của các cấu trúc giải phẫu quan trọng, chẳng hạn như thần kinh cằm, thần kinh dưới ổ mắt, thần kinh lưỡi, động mạch dưới lưỡi, và động mạch hàm móng, phải được đánh giá cẩn thận trước phẫu thuật. Cần thận trọng trong quá trình phẫu thuật để không gây chấn thương trực tiếp cho những cấu trúc này.
  • Lộ màng sớm vào môi trường miệng. Bác sĩ lâm sàng nên kiểm soát tình huống lộ màng bằng cách xem xét mức độ lộ màng, có hoặc không có lỗ dò, và sự tuân thủ của bệnh nhân về chế độ vệ sinh nghiêm ngặt. Bệnh nhân nên được tái khám hàng tuần và hướng dẫn sử dụng chlorhexidine. Có thể phải lấy màng ra nếu mức độ lộ màng tiếp tục tăng lên.
  • Nhiễm trùng vật liệu ghép hoặc vết thương phẫu thuật. Các yếu tố bệnh nhân, chẳng hạn như bệnh lý toàn thân và hút thuốc lá, hoặc các yếu tố liên quan đến kỹ thuật phẫu thuật, có thể khiến bệnh nhân bị nhiễm trùng sau phẫu thuật. Bệnh nhân nên uống kháng sinh và súc miệng với chlorhexidine 0.12% sau phẫu thuật.
  • Mất xương ghép sớm. Mất tích hợp vật liệu ghép sớm có thể xảy ra sau khi màng bị lộ sớm.

Nguồn tài liệu: Clinical Cases in Implant Dentistry, First Edition – Published 2017 by John Wiley & Sons, Inc.


Posted

in

,

by

Tags:

Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *