Phục hình đơn lẻ trên Implant vùng răng sau – Tiên lượng.

Những lợi ích về mặt chức năng và sinh học của phục hình trên implant so với phục hình thông thường trong nhiều tình huống lâm sàng là không thể chối cãi. Điều trị implant giúp giảm thiểu sự tiêu xương. Ngoài ra, các răng thật lành mạnh xung quanh có thể được giữ lại mà không cần mài. Do đó, có thể ước tính rằng tỷ lệ bệnh nhân đến nha khoa sẽ có phục hình trên implant tăng đáng kể trong tương lai. Cùng bàn luận về tiên lượng của phục hình Implant đơn lẻ tại vị trí răng sau, đồng thời tìm hiểu các biến chứng sinh học có thể xảy ra đối với phục hình trên Implant.

phuc-hinh-rang-sau-don-le

1. Tiên lượng của phục hình Implant răng sau đơn lẻ

Điều trị một răng bị mất đã trở thành một chỉ định thường xuyên và quan trọng trong nha khoa hiện nay. Có hàng loạt phương án điều trị để phục hồi một răng bị mất, từ cầu răng dán, đến cầu răng, đến implant.

Những lợi ích về mặt chức năng và sinh học của phục hình trên implant so với phục hình thông thường trong nhiều tình huống lâm sàng là không thể chối cãi. Điều trị implant giúp giảm thiểu sự tiêu xương. Ngoài ra, các răng thật lành mạnh xung quanh có thể được giữ lại mà không cần mài. Do đó, có thể ước tính rằng tỷ lệ bệnh nhân đến nha khoa sẽ có phục hình trên implant tăng đáng kể trong tương lai.

Tuy nhiên, khi lựa chọn giữa mão đơn lẻ trên implant với cầu răng, điều quan trọng là phải xác định tỷ lệ tồn tại cùng với tỷ lệ biến chứng sinh học và cơ học của cả implant lẫn phục hình. Tiêu chí lựa chọn nên xuất phát từ những tổng quan hệ thống của các bằng chứng hiện nay kết hợp với đánh giá nguy cơ phẫu thuật/phục hình cũng như các yếu tố liên quan đến bệnh nhân, bao gồm hiệu quả chi phí và chất lượng cuộc sống.

Khi tư vấn cho bệnh nhân những phương án điều trị khác nhau, thì tỷ lệ tồn tại “lâu dài” cùng với tỷ lệ biến chứng sinh học và cơ học nên dựa trên thời gian theo dõi trung bình tối thiểu 5 năm để cung cấp cho bệnh nhân những thông tin đáng tin cậy. Nếu chúng ta chỉ xem xét thời gian quan sát “tồn tại” mà không quan tâm đến tình trạng của phục hình, và “thành công” là khi phục hình được duy trì không đổi hoặc không có biến chứng trong suốt thời gian theo dõi, thì những tổng quan hệ thống cho đến nay cho thấy tỷ lệ tồn tại 5 năm của mão đơn lẻ trên implant là 94.5% và của cầu răng thông thường là 93.8%. Tỷ lệ tồn tại 10 năm được ước tỉnh là 89.4% cho mão đơn lẻ trên implant và 89.2% cho cầu răng thông thường.

2. Biến chứng sinh học của phục hình

Biến chứng sinh học của phục hình có thể được chia thành biến chứng cơ học (ví dụ như gãy răng trụ, mất lưu giữ, vỡ sứ/sườn/phụ tùng, lỏng vít) và biến chứng sinh học – bao gồm thấu quang quanh implant, các dấu hiệu viêm quanh implant (chẳng hạn như túi sâu quanh implant) và các dấu hiệu X-quang cho thấy mất tích hợp xương (cụ thể là tiêu xương theo chiều ngang và khiếm khuyết theo chiều đứng ở các cấu trúc phía trên implant), sâu răng, chết tủy, bệnh nha chu tiến triển đối với cầu rằng trên răng thật.

Đối với cầu răng thông thường, biến chứng thường gặp nhất là các biến chứng sinh học. Tuy nhiên, tỷ lệ biến chứng cơ học của phục hình trên implant lại cao hơn đáng kể so với phục hình trên răng thật. Bốn nghiên cứu cho thấy cầu răng vẫn còn nguyên vẹn sau thời gian quan sát. Trong siêu phân tích, tỷ lệ biến chứng 5 năm của cầu răng thông thường được ước tính là 15.7%. Giá trị này là 38.7% đối với cầu răng trên implant.

Khi so sánh tỷ lệ thành công của cầu răng thông thường trên răng thật với cầu răng trên implant, thì tỷ lệ thành công 5 năm của cầu răng thông thường cao hơn đáng kể so với cầu răng trên implant (84.3% so với 61.3%). Do đó, bệnh nhân có cầu răng trên implant sẽ có nguy cơ biến chứng cao hơn so với bệnh nhân có cầu răng thông thường.

Biến chứng sinh học thường gặp nhất ở phục hình trên răng thật là răng trụ bị chết tủy. Một nghiên cứu đã so sánh 255 răng trụ với 417 răng không phải răng trụ đã ghi nhận tỷ lệ hoại tử tủy cao hơn ở răng trụ (15% so với 3%). Tỷ lệ chết tủy của răng trụ sau 5 năm ở cầu răng thông thường là 6.1%. Biến chứng sinh học thường gặp thứ hai ở phục hình trên răng thật là sâu răng. Một vài nghiên cứu đã báo cáo số lượng cầu răng thất bại do sâu răng. Tỷ lệ thất bại của cầu răng thông thường sau 5 năm do sâu răng là 1.6%. Biến chứng sinh học thường gặp thứ ba ở phục hình trên răng thật là thất bại do viêm nha chu tái phát, với tỷ lệ 0.4%.

Biến chứng sinh học thường gặp nhất của phục hình trên implant là bệnh lý quanh implant. Tổn thương niêm mạc quanh implant, biến chứng mô mềm, và viêm quanh implant đã được báo cáo trong một số nghiên cứu. Các nghiên cứu khác đã báo cáo những dấu hiệu viêm (đau, đỏ, sưng, và chảy máu) hoặc “các biến chứng mô mềm”, bao gồm lỗ dò, viêm nướu, hoặc tăng sản. Tỷ lệ hàng năm của biến chứng này là 9.7% đối với mão đơn lẻ trên implant. Đối với mão đơn lẻ trên implant, có 10 nghiên cứu đã đánh giá những thay đổi về chiều cao viền xương trên phim X- quang sau một thời gian quan sát. Trong mô hình phân tích Poisson, tỷ lệ tích lũy của implant bị tiêu xương trên 2 mm sau 5 năm là 6.3%.

Ở nhóm biến chứng cơ học, biến chứng thường gặp nhất của phục hình trên răng thật là mất lưu giữ, với tỷ lệ 5 năm là 3.3% đối với cầu răng thông thường. Giá trị này là 5.5% đối với mão đơn lẻ trên implant. Biến chứng cơ học thường gặp nhất của phục hình trên implant là vỡ vật liệu phục hình (nhựa acrylic, sứ, hoặc composite), với tỷ lệ 5 năm là 4.5% đối với mão đơn lẻ trên implant. Cầu răng trên răng thật có nguy cơ nứt hoặc vỡ sứ sau 5 năm thấp hơn đáng kể (2.9%). Biến chứng cơ học thường gặp thứ hai của phục hình trên implant là lỏng abutment hoặc vít mặt nhai. Tỷ lệ lỏng abutment hoặc vít mặt nhai sau 5 năm của mão đơn lẻ trên implant là 12.7%. Biến chứng này cũng có thể xảy ra ở cầu răng thông thường.

Nứt gãy các thành phần như implant, abutment, và vít mặt nhai là những biến chứng hiếm gặp khác của mão đơn lẻ trên implant. Một vài thất bại và biến chứng kỹ thuật ngày nay dường như không còn nữa nhờ sự phát triển liên tục của các thành phần implant. Do đó, với sự ra đời của thiết bị kiểm soát torque và sự cải tiến kỹ thuật của abutment và hệ thống chuyển, một số nguy cơ có thể được loại trừ hoặc giảm thiểu đáng kể. Mặt khác, hơn 90% bệnh nhân hoàn toàn hài lòng với điều trị implant về cả chức năng lẫn thẩm mỹ. Một implant thì mắc hơn một cầu răng, nhưng, sau một thời gian quan sát ngắn, phục hình trên implant lại có tỷ số chi phí/hiệu quả thuận lợi hơn so với cầu răng thông thường khi thay thế một răng. Phục hình trên implant được đề xuất theo góc độ kinh tế, đặc biệt là trong những tình huống các răng xung quanh không cần phục hồi hoặc chỉ phục hồi tối thiểu và đủ xương.

Nguồn tài liệu: Clinical Cases in Implant Dentistry, First Edition – Published 2017 by John Wiley & Sons, Inc.


Posted

in

,

by

Tags:

Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *