Tiêu sống hàm do nhổ răng – Tái sinh xương có hướng dẫn (GBR).

Phẫu thuật giảm tiêu sống hàm là một nhóm các kỹ thuật được sử dụng để tăng kích thước ngoài-trong hoặc trên-dưới của sống hàm. Hiện nay có một vài kỹ thuật, và tái tạo xương có hướng dẫn GBR là một trong số đó. Mỗi kỹ thuật có những ưu điểm và nhược điểm riêng, với tiên lượng theo đổi tùy theo từng trường hợp. Tình huống lâm sàng sẽ cho biết kỹ thuật cần lựa chọn. Bài viết này đưa ra một ví dụ cụ thể trường hợp tái sinh xương có hướng dẫn đối với quá trình tăng kích thước xương, thuận lợi cho việc đặt Implant dưới đây.

1. Tiêu sống hàm do nhổ răng

Nhổ răng có thể làm tiêu sống hàm (ở mặt ngoài nhiều hơn), và tiêu xương chủ yếu xảy ra trong 6 tháng đầu. Những yếu tố khác có thể làm biến dạng sống hàm bao gồm chấn thương, phát triển, lấy nang hoặc bướu, và đang hoặc từng bị bệnh nha chu. Phẫu thuật tăng sống hàm là một nhóm các kỹ thuật được sử dụng để tăng kích thước ngoài-trong hoặc trên-dưới của sống hàm. Hiện nay có một vài kỹ thuật, và tái tạo xương có hướng dẫn GBR là một trong số đó. Mỗi kỹ thuật có những ưu điểm và nhược điểm riêng, với tiên lượng theo đổi tùy theo từng trường hợp. Tình huống lâm sàng sẽ cho biết kỹ thuật cần lựa chọn. Trước đây, GBR chỉ sử dụng màng ngăn đơn thuần, nhưng hiện nay, sử dụng xương ghép kết hợp với màng trong GBR đã trở thành tiêu chuẩn điều trị.

Giống như các phẫu thuật nha chu khác, những yếu tố toàn thân của bệnh nhân, chẳng hạn như hút thuốc lá và đái tháo đường không kiểm soát, sẽ ảnh hưởng cực kỳ bất lợi đến kết quả của kỹ thuật này . Vì vậy, lựa chọn bệnh nhân và vị trí phù hợp là rất quan trọng để tăng khả năng thành công.

GBR đã được chứng minh là một kỹ thuật rất đáng tin cậy để tăng kích thước ngang (ngoài-trong) nhằm tạo thuận lợi cho việc đặt implant, như ví dụ ca lâm sàng đã thực hiện ở bệnh nhân dưới đây.

2. Ca lâm sàng cụ thể

Bệnh nhân đến phòng khám với tình trạng viêm nướu do mảng bám kèm theo biến dạng niêm mạc-nướu ở sống hàm mất răng. Bệnh nhân tiêu xương nhẹ theo chiều đứng ở mào xương tại vị trí #14. Kế hoạch điều trị cho bệnh nhân này là điều trị ban đầu bao gồm cạo vôi răng và hướng dẫn vệ sinh răng miệng để giải quyết viêm nướu. Tiếp theo là phẫu thuật tái tạo xương có hướng dẫn GBR để khắc phục thiếu hồng ngoài-trong của sống hàm. Sau khi vị trí ghép đã lành thương, tiến hành đặt implant. Sau khi đủ thời gian tích hợp xương thì làm phục hình trên implant.

Sau giai đoạn điều trị ban đầu, bệnh nhân bắt đầu điều trị GBR. Nhịp cầu trước đó đã được cắt và lấy ra trước phẫu thuật.

Tình trạng sau khi tháo nhịp cầu (mặt nhai)

Sau khi gây tê tại chỗ vị trí phẫu thuật, lật vạt toàn bộ ở phía ngoài và phía trong. Rạch giữa mào xương tại vị trí #15 và #14, mở rộng sang răng kế cận giống như đường rạch khe nướu. Khoan xương vỏ của xương bên dưới bằng mũi khoan tròn nhỏ để tế bào từ xương dễ dàng đi vào vùng ghép trong quá trình lành thương.

Thực hiện GBR sau khi lật vạt toàn bộ (A), khoan xương vỏ của xương bên dưới (B), tiếp theo là đặt màng (C) và xương ghép hạt đồng loại (D). Vạt được kéo lại và khâu để đóng kín vị trí phẫu thuật (E, F). Rạch giữa mào xương tại vị trí #15 và #14, mở rộng sang răng kế cận giống như đường rạch khe nướu. Khoan xương vỏ của xương bên dưới bằng mũi khoan tròn nhỏ để tế bào từ xương dễ dàng đi vào vùng ghép trong quá trình lành thương. Xương ghép hạt đồng loại được hòa tan bão hòa trong nước cất khử ion rồi cho vào thiếu hồng. Màng được lèn vào bên dưới vạt phía ngoài và phía trong để che phủ toàn bộ xương ghép hạt.

Tách màng xương ở vạt phía ngoài để tăng thêm sự di động cho phần vạt phía trên nhằm đạt được sự đóng kín ban đầu (hoàn toàn) mà không bị căng. Kích thước của màng được quyết định dựa trên kích thước của thiếu hồng và được cắt tỉa tương ứng. Màng phải lớn hơn thiếu hồng ít nhất 3 mm. Xương ghép hạt đồng loại được hòa tan bão hòa trong nước cất khử ion rồi cho vào thiếu hồng. Màng được lèn vào bên dưới vạt phía ngoài và phía trong để che phủ toàn bộ xương ghép hạt.

Vạt được định vị và khâu bằng chỉ không tiêu. Đầu tiên sử dụng mũi khâu đệm ngang để kéo mép vạt, sau đó sử dụng mũi khâu rời để đóng kín ban đầu. Sau 2 tuần, cắt chỉ và lau vùng này bằng chlorhexidine. Các răng kế cận được làm sạch nhẹ nhàng bằng dụng cụ cạo vôi tay. Sau 4 tháng lành thương, xương phía ngoài đã tăng lên đáng kể, và 2 implant (đường kính 3.5 mm x chiều cao 11 mm) được đặt (theo hướng dẫn của nhà sản xuất) mà không cần phải ghép thêm. Hai tháng sau cấy ghép, tiến hành làm phục hình trên implant.

(A) Bốn tháng sau phẫu thuật GBR. (B) Đủ xương chiều ngang tại thời điểm đặt implant. Implant được đặt (C) và làm phục hình (D). (E) Phim quanh chóp của implant đã làm phục hình. Sau 4 tháng lành thương, xương phía ngoài đã tăng lên đáng kể, và 2 implant (đường kính 3.5 mm x chiều cao 11 mm) được đặt (theo hướng dẫn của nhà sản xuất) mà không cần phải ghép thêm. Hai tháng sau cấy ghép, tiến hành làm phục hình trên implant.

Nguồn tài liệu: Clinical Cases in Implant Dentistry, First Edition – Published 2017 by John Wiley & Sons, Inc.


Posted

in

,

by

Tags:

Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *