Phương pháp dẫn lưu áp xe thực quản, trung thất là một kỹ thuật y tế quan trọng trong việc duy trì sự sống của bệnh nhân sau khi trải qua một ca phẫu thuật hoặc bị chấn thương nặng. Phương pháp này giúp duy trì lưu thông máu và áp lực đầy đủ đến các bộ phận quan trọng của cơ thể và giảm thiểu nguy cơ tử vong hoặc tác động xấu đến các bộ phận của cơ thể.
1. Đại cương
Áp-xe trung thất (AXTT) là một thể nhiễm trùng nặng, hậu quả của thủng thực quản do tai biến nuốt phải dị vật, sau soi thực quản hay bệnh lý vùng hầu họng như: do bệnh lý răng miệng (nhổ răng, viêm tấy sàn miệng lan tỏa), do ung thư vùng hầu họng – thực quản nhưng phát hiện muộn do người bệnh đến bệnh viện muộn gây thủng làm viêm lan tỏa vào trung thất, hoặc sau phẫu thuật vùng ngực như mổ tim mở gây viêm xương ức lan tỏa vào vùng trung thất. Ðặc biệt ở Việt Nam nguyên nhân chính sau thủng thực quản do dị vật như hóc xương, nuốt phải răng giả hay các vật sắc nhọn… trong đó đặc biệt nguyên nhân do hóc xương gặp rất phổ biến, nhất là xương gà vịt. Xương của các loại gia cầm rất cứng và sắc nên rất dễ dàng gây thủng thực quản khi mắc vào.
Mặc dù có những tiến bộ về chẩn đoán, điều trị phẫu thuật, thuốc kháng sinh… nhưng AXTT gây tỷ lệ tử vong còn rất cao. Trên thế giới, tỷ lệ tử vong từ 30% đến 40%. Ở Việt Nam, tỷ lệ tử vong do AXTT trước đây đến 60%, hiện nay có giảm xuống đáng kể nhưng vẫn ở mức là 16%. Nguyên nhân tử vong do biến chứng chảy máu hoặc ổ mủ vỡ vào quai động mạch chủ ở phần ngực, gây nhiễm trùng nhiễm độc nặng mủ lan tỏa trong trung thất, hay vỡ vào màng tim, phổi và màng phổi… rất khó dẫn lưu và làm sạch hết dịch mủ. AXTT có thể phòng tránh được nếu người bệnh đến khám sớm ngay từ lúc xảy ra các tai biến.
2. Chỉ định
Chỉ định tuyệt đối cho những trường hợp áp xe trung thất
3. Chống chỉ định
Không có chống chỉ định tuyệt đối
Một số chống chỉ định tương đối của phương pháp dẫn lưu áp xe thực quản, trung thất:
– Tắc nghẽn động mạch chủ: Nếu bệnh nhân bị tắc nghẽn động mạch chủ, phương pháp dẫn lưu áp xe thực quản, trung thất không thể được sử dụng vì có thể làm tăng áp lực trong động mạch và gây ra các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng.
– Đau ngực và bệnh lý tim mạch: Nếu bệnh nhân có các triệu chứng đau ngực hoặc bệnh lý tim mạch khác, phương pháp dẫn lưu áp xe thực quản, trung thất cũng không được khuyến cáo sử dụng.
– Rối loạn đông máu: Nếu bệnh nhân có rối loạn đông máu hoặc đang sử dụng thuốc ức chế đông máu, phương pháp dẫn lưu áp xe thực quản, trung thất cũng không được khuyến cáo sử dụng vì nó có thể làm tăng nguy cơ chảy máu và gây ra các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng.
– Bệnh lý gan và thận: Nếu bệnh nhân có các bệnh lý liên quan đến gan hoặc thận, phương pháp dẫn lưu áp xe thực quản, trung thất cũng không được khuyến cáo sử dụng vì nó có thể gây ra các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng.
Ngoài ra, phương pháp dẫn lưu áp xe thực quản, trung thất cũng không được khuyến cáo sử dụng đối với những bệnh nhân có các tình trạng khác như bệnh suy tim, bệnh động mạch vành và bệnh tăng huyết áp nghiêm trọng.
4. Chuẩn bị
4.1. Người thực hiện:
– 01 Phẫu thuật viên chuyên khoa tiêu hóa hoặc ngoại chung
– 02 phẫu thuật viên phụ
– 01 bác sỹ gây mê
– Kíp dụng cụ viên, chạy ngoài, phụ mê: 03 điều dưỡng
4.2. Người bệnh:
– Người bệnh và gia đình được giải thích rõ trước mổ về tình trạng bệnh và tình trạng chung, về những khả năng phẫu thuật sẽ thực hiện, về những tai biến, biến chứng, di chứng có thể gặp do bệnh, do phẫu thuật, do gây mê, tê, giảm đau, do cơ địa của người bệnh.
– Nhịn ăn, thụt tháo, vệ sinh vùng phẫu thuật và toàn thân.
– Kháng sinh dự phòng
4.3. Phương tiện:
Bộ dụng cụ đại phẫu, van kéo xương ức, van thực quản, chỉ khâu, máy cắt nối…
4.4. Dự kiến thời gian phẫu thuật:
120 phút
5. Các bước tiến hành
– Đường rạch da chữ J bờ trước cơ ức đòn chũm trái.
– Cắt cơ vai móng, thắt và cắt TM giáp dưới, đi qua khe giữa thùy trái tuyến giáp ở trong và bó mạch cảnh ở ngoài để phẫu tích vào bờ trái của thực quản.
– Dùng tampon để tách dọc theo mặt trước thực quản xuống trung thất trên, hoàn toàn dùng ngón tay và tampon để phẫu tích.
– Mở thông dạ dày để nuôi ăn
– Dẫn lưu màng phổi một bên hoặc hai bên khi áp xe gây tràn dịch màng phổi
– Trong trường hợp áp xe trung thất dưới không thể dẫn lưu được qua đường cổ, ta phải mở ngực để dẫn lưu ổ áp xe.
6. Theo dõi và xử trí tai biến
– Theo dõi và xử trí các biến chứng:
- Chảy máu: thường trong 48h đầu hoặc những ngày tiếp theo. Chảy máu đỏ tươi, số lượng nhiều qua dẫn lưu, toàn trạng thay đổi (nhợt, lo âu, mạch nhanh, huyết áp tụt) cần mổ kiểm tra lại, cầm máu.
- Theo dõi áp xe tồn dư, tình trạng bục miệng nối, nhiễm trùng vết mổ để có chỉ định can thiệp kịp thời.
– Theo dõi tình trạng chung: mạch, huyết áp, viêm phổi
- Truyền dịch: tính đủ năng lượng, lượng dịch vào cho từng người bệnh cụ thể.
- Kháng sinh: sử dụng kháng sinh dự phòng hoặc sử dụng kháng sinh điều trị khi có chỉ định, tùy thuộc hoàn cảnh cụ thể.
- Cho người bệnh ăn lại khi có trung tiện.
Nguồn tham khảo: Bộ Y tế
Leave a Reply