Thiểu ối là tình trạng nước ối ít hơn bình thường, khi chỉ số ối (AFI) nhỏ hơn 5cm và màng ối còn nguyên vẹn. Tỷ lệ xuất hiện thiểu ối được báo cáo từ các nghiên cứu bị ảnh hưởng bởi sự khác biệt trong tiêu chuẩn chẩn đoán, dân số nghiên cứu (nguy cơ thấp hay nguy cơ cao, siêu âm tầm soát hay chọn lọc), tuổi thai tại thời điểm siêu âm.
1. Giới thiệu về thiểu ối
Nước ối là chất dịch lỏng rất giàu dinh dưỡng bao bọc xung quanh thai nhi khi thai nằm trong tử cung của người mẹ giữ vai trò quan trọng với sự phát triển của thai nhi. Nước ối xuất hiện từ ngày thứ 12 sau thụ thai , có khả năng tái tạo và trao đổi chất.
Cách đo chỉ số ối (AFI): chia tử cung thành 4 phần bằng nhau, đo độ sâu lớn nhất của mỗi khoang ối, AFI là tổng 4 số đo trên.
Thiểu ối là thể tích nước ối (AFV) thấp hơn mức tối thiểu dự kiến đối với tuổi thai. Trong trường hợp thiểu ối:
-
AFI ≤ 5 cm: AFI là tổng độ sâu của nước ối theo chiều dọc được đo trong mỗi góc phần tư của tử cung; AFI bình thường dao động từ > 5 đến < 24 cm.
- SDP < 2 cm: SDP là phép đo túi nước ối sâu nhất; SDP bình thường là ≥ 2 đến < 8 cm.
2. Nguyên nhân gây thiểu ối
Một số trường hợp có thể xác định được nguyên nhân từ mẹ, thai nhi hoặc nhau thai, phần còn lại được coi là vô căn.
Các nguyên nhân có khả năng xảy ra nhất khác nhau tùy theo mức độ nghiêm trọng của thiểu ối và thời điểm chẩn đoán trong ba tháng. Phần lớn các trường hợp xuất hiện trong tam cá nguyệt thứ ba và không có nguyên nhân xác định.
Các nguyên nhân có thể đến từ mẹ như:
- Mẹ bị tiền sản giật, tăng huyết áp mãn tính, bệnh mạch máu collagen, bệnh thận, huyết khối
- Sử dụng các thuốc trong quá trình mang thai như thuốc ức chế men chuyển angiotensin, thuốc ức chế tổng hợp prostaglandin [ví dụ: NSAID], trastuzumab
- Suy tử cung nhau thai
- Vô căn
Các nguyên nhân có thể đến từ bao thai như:
- Có bất thường nhiễm sắc thể
- Bất thường bẩm sinh, đặc biệt là những bất thường liên quan đến sản xuất nước tiểu bị suy giảm
- Thai bị hạn chế tăng trưởng
- Thai quá ngày
- Gặp các vấn đề liên quan đến nhiễm trùng
- Huyết khối hoặc nhồi máu nhau thai
Vào đầu tam cá nguyệt thứ hai, nước tiểu của thai nhi được sản xuất và đi vào túi ối. Do đó, các dị tật bẩm sinh liên quan đến thận và đường tiết niệu của thai nhi (CAKUT) bắt đầu đóng một vai trò nổi bật trong nguyên nhân của thiểu ối. Những bất thường này bao gồm rối loạn các chức năng và cấu trúc của thận (ví dụ, bệnh thận nang) và tổn thương tắc nghẽn đường tiết niệu dưới (ví dụ, van niệu đạo sau, hẹp niệu đạo). Các yếu tố từ mẹ và nhau thai, cũng như vỡ màng ối (chấn thương hoặc tự phát), cũng là những nguyên nhân phổ biến gây thiểu ối trong tam cá nguyệt thứ hai
Thiểu ối được chẩn đoán lần đầu trong tam cá nguyệt thứ ba thường là do PPROM. Các nguyên nhân phổ biến khác là suy tử cung nhau thai (biểu hiện bằng FGR, tiền sản giật và/hoặc nhau bong non mạn tính) và dị tật thai nhi. Ngoài ra, nhiều trường hợp là vô căn. Nhiễm trùng TORCH ở thai nhi (toxoplasma gondii, rubella virus, cytomegalovirus, herpes simplex virus) và parvovirus B19 không phổ biến nhưng có thể liên quan đến thiểu ối ở tam cá nguyệt thứ hai hoặc thứ ba; ngoài ra còn có các nguyên nhân khác như nhiễm trùng bào thai cũng thường xuất hiện (Này em đề cập phần TORCH rồi). AFV thường bắt đầu giảm vào cuối tam cá nguyệt thứ ba
2. Biến chứng
Thiểu ối có thể gây vỡ ối trước chuyển dạ.
Thai chết
Chậm tăng trưởng trong tử cung
-
Sự co lại của chi dưới (nếu chứng thiểu ối bắt đầu sớm trong thai kỳ)
-
Trưởng thành phổi bị trì hoãn (nếu thiểu ối sớm bắt đầu trong thai kỳ)
-
Không có khả năng chịu đựng cuộc chuyển dạ, dẫn đến nhu cầu sinh mổ
Nguy cơ biến chứng phụ thuộc vào lượng nước ối đang có và nguyên nhân gây ra.
Nó có thể được phát hiện ban đầu khi kiểm tra siêu âm được thực hiện để đánh giá AFV ở bệnh nhân có nguy cơ bất thường AF (ví dụ: vỡ màng ối, tiền sản giật) hoặc như một phát hiện ngẫu nhiên khi kiểm tra siêu âm được thực hiện vì lý do khác (ví dụ: quét giải phẫu thai nhi tại 18 đến 20 tuần.
Sự xuất hiện thiểu ối trong giai đoạn sớm của thai kỳ làm tăng nguy cơ thiểu sản phổi cho thai nhi. Kilbride và cộng sự (1996) tiến hành quan sát trên 115 thai phụ bị vỡ ối trước 29 tuần, có 7 ca thai lưu, 40 trẻ sơ sinh tử vong, và ước tính tỷ lệ tử vong chu sinh là 409/1000. Nguy cơ thiểu sản phổi gây chết thai khoảng 20%.
Thiểu ối sớm thường liên quan đến những bất thường của thai nhi. Tình trạng nước ối ít cũng gây trở ngại trong quá trình khảo sát hình thái học của thai nhi qua siêu âm (nếu có). Trong trong hợp này, chỉ định truyền ối cũng có thể được cân nhắc.
Biến chứng thiểu ối xuất hiện muộn trong thai kỳ tùy thuộc vào tuổi thai, mức độ thiểu ối và tình trạng bệnh lý kèm theo của mẹ. Hướng dẫn sản phụ uống nhiều nước hay truyền dịch c n nhiều tranh cãi trong việc cải thiện lượng nước ối.
Hỗ trợ trưởng thành phổi cho thai nhi là cần thiết trong trường hợp thai non tháng. Đánh giá sức khỏe thai nhi.
Leave a Reply