Vật liệu Tantalum là một loại vật liệu đã xuất hiện từ khá lâu, tuy nhiên lại còn đang mới mẻ đối với lĩnh vực phẫu thuật Implant Nha khoa. Cùng tìm hiểu tổng quan về vật liệu này, đồng thời, xem xét những nghiên cứu đối với lĩnh vực vật liệu đặc biệt.
1. Tổng quan về vật liệu Tantalum đối với Implant nha khoa
Vật liệu Tantalum (ví dụ là trụ Implant Trabecular Metal (TM) – Zimmer TMT), một khung mô phỏng sinh học mô phỏng cấu trúc lỗ rỗ và tính chất đàn hồi của xương bè, đã được phát triển bởi các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực phẫu thuật chỉnh hình.
TM (Zimmer TMT) được chế tạo bằng cách phủ Tantalum nguyên chất lên khung carbon thủy tinh thông qua quá trình kết tủa hơi hóa học.
Kể từ đầu những năm 1940, vật liệu Tantalum, chiếm khoảng 98% TM, đã được sử dụng rộng rãi làm vật liệu cấy ghép trong y khoa, và lần đầu tiên được giới thiệu làm vật liệu cấy ghép nha khoa vào năm 1947. Lõi carbon thủy tinh, chiếm khoảng 2% TM, cũng tương hợp sinh học và được sử dụng làm vật liệu cấy ghép nha khoa trong suốt những năm 1970. Việc TM với hợp kim titanium được sử dụng rộng rãi trên lâm sàng trong phẫu thuật chỉnh hình và cấy ghép nha khoa đã khẳng định tính tương hợp sinh học và tính kháng mòn của tantalum, carbon thủy tinh, và hợp kim titanium được sử dụng trong thiết kế implant.
Ngoài sự tích hợp xương thông thường, implant TM còn được tăng cường bằng sự tăng trưởng của xương vào trong vật liệu lỗ rỗ, được gọi là sự kết hợp xương. Mặc dù sự kết hợp xương đã được ứng dụng trong cấy ghép phẫu thuật chỉnh hình gần 20 năm nay, nhưng implant Trabecular Metal (Zimmer Dental Inc.) vẫn còn khá mới mẻ đối với cấy ghép nha khoa. Do đó, những dữ liệu lâm sàng của thiết kế này trong các ấn phẩm tổng quan vẫn đang bỏ ngỏ, và một số nghiên cứu lâm sàng vẫn đang được tiến hành.
2. Bàn luận các nghiên cứu trên thế giới
Trong mô hình răng nanh, Kim và cộng sự (2013) đã so sánh implant lai tantalum-titanium Trabecular Metal với implant tiêu chuẩn Tapered-Screw Vente (Zimmer Dental Inc.) sau 0, 2, 4, 8, và 12 tuần lành thương. Không có các biến chứng trong và sau phẫu thuật. Độ ổn định của implant, được đo bằng phân tích tần số cộng hưởng, không khác biệt đáng kể giữa thiết kế implant thử nghiệm và chứng tại mọi thời điểm. Tỷ lệ tiếp xúc xương vỏ-implant vượt trên 65% và không có sự khác biệt thống kê giữa 2 thiết kế implant ở tất cả các thời điểm. Phân tích mô học và phân tích hiển vi điện tử quét tán xạ cho thấy sự tích hợp xương dần dần với bề mặt implant (tăng trưởng xương bên ngoài) cùng với sự tăng trưởng và trưởng thành xương bên trong vật liệu tantalum lỗ rỗ qua các thời điểm đánh giá. Tỷ lệ tiếp xúc xương-implant và xương bên trong TM có mối tương quan thuận có ý nghĩa.
Schlee và cộng sự đã báo cáo kết quả tạm thời 1 năm từ một nghiên cứu lâm sàng tiến cứu 3 năm về tải lực tức thì của implant Trabecular Metal. Báo cáo tạm thời bao gồm 22 implant Trabecular Metal được đặt ở 17 đối tượng (10 nữ, 7 nam). Implant được làm phục hình tạm hở khớp trong vòng 48 giờ sau khi đặt implant, và được tải lực chính thức trong vòng 14 ngày. Không có thất bại implant hoặc tác dụng phụ ở nhóm tạm thời, và mức tiêu mào xương trung bình là 0.43 ± 0.41 mm.
Trong nghiên cứu lâm sàng thứ hai, Schlee và cộng sự đã báo cáo kết quả tạm thời 1 năm từ một đánh giá lâm sàng quốc tế đa trung tâm, tiến cứu, không ngẫu nhiên về implant Trabecular Metal trong giai đoạn phát triển của nó (2010-2011). Mục tiêu của nghiên cứu 5 năm này là đánh giá chức năng của implant TM ở một nhóm bệnh nhân cắt ngang mà bác sĩ lâm sàng thường xuyên điều trị trong quá trình thực hành. Những nghiên cứu không quan thiệp được thiết kế để tránh thiên vị nhà sản xuất bằng cách sử dụng các sản phẩm như trong thực hành nha khoa thông thường. Dữ liệu được thống kê và phân tích hệ thống để tìm ra các kết quả có ý nghĩa thống kê. Trong nghiên cứu này, chương trình thu thập số liệu theo chiều dọc đã được thiết lập để theo dõi dữ liệu nghiên cứu và cung cấp cho nghiên cứu viên một phương pháp thu thập số liệu an toàn nhờ những mẫu báo cáo case kỹ thuật số được lưu trữ thành cơ sở dữ liệu có mật khẩu bảo vệ. Sự lựa chọn bệnh nhân và kế hoạch điều trị được đánh giá chuyên môn bởi các nghiên cứu viên giàu kinh nghiệm, và sự giám sát 22 vị trí nghiên cứu được thực hiện bởi các Ủy ban đánh giá thuộc 5 quốc gia của Liên minh Châu Âu. Tổng cộng 268 đối tượng đã được đưa vào chương trình thu thập số liệu theo chiều dọc và được điều trị với 377 implant TM (nhóm tham chiếu). Schlee và cộng sự [6] đã công bố báo cáo tạm thời về một nhóm nhỏ tất cả các đối tượng có implant được đặt trong giai đoạn phát triển từ tháng 10/2010 đến tháng 06/2011, và đã hoàn tất theo dõi lâm sàng 1 năm sau khi đặt 1 implant (nhóm trọng điểm). Tổng cộng 105 đối tượng được lựa chọn và điều trị bằng 57 implant hàm trên và 88 implant hàm dưới bởi các nghiên cứu viên. Các Ủy ban đánh giá đã đưa ra đánh giá về nghiên cứu. Trong nhóm nghiên cứu này, 26.7% đối tượng (n = 17/105) có các vấn đề sức khỏe đi kèm có khả năng làm tăng nguy cơ tiêu mào xương và/hoặc thất bại implant lâu dài: hút thuốc lá (n = 17/105) , tiền sử viêm nha chu (n = 11/105), tiền sử loãng xương (n = 2/105) , tiền sử nghiến răng hoặc siết chặt răng (n = 4/105) , tiền sử nhồi máu cơ tim hoặc bệnh tim (n = 4/105) , và nhiễm trùng trong miệng (n = 1/105) . Tám đối tượng (28.6%) có ít nhất hai vấn đề sức khỏe đi kèm. Tổng cộng 7 implant đã thất bại: 2 do không tích hợp xương và 2 do nhiễm trùng. Sau 1 năm thực hiện chức năng, mức tiêu xương trung bình là 0.43 ± 0.57 mm và tỷ lệ tồn tại tích lũy của implant là 95.2% (n = 138/145) . Implant Trabecular Metal đã đạt hiệu quả lâm sàng trong nhiều tình huống khác nhau ở những bệnh nhân không được kiểm soát có hoặc không có vấn đề sức khỏe kèm theo.
Trong một nghiên cứu khác gần đây (2014) đang chờ xuất bản, Clemente de Arriba và cộng sự đã đánh giá đáp ứng mô với các trụ TM được đặt vào xương hàm ở người. Hai mươi ba tình nguyện viên khỏe mạnh bị mất răng bán phần đã được lựa chọn ngẫu nhiên và được lên kế hoạch đặt 1 hoặc 2 trụ TM 3 mm x 5 mm ở vùng mất răng hàm trên và/hoặc hàm dưới. Ở mỗi vùng mất răng được lựa chọn, xương ổ răng được bộc lộc phẫu thuật và tiến hành khoan xương bằng cách khoan dần dần với mũi khoan có đường kính tăng dần có nước bơm rửa bên trong. Mỗi trụ được đặt hơi trên đỉnh sống hàm và không phủ màng. Mô mềm được khâu đóng để đạt sự đóng kín ban đầu. Đa số trụ (58%) được đặt ở vùng răng cối lớn. Các đối tượng được dự kiến tháo trụ sau 2, 3, 6 hoặc 12 tuần lành thương. Mỗi thời điểm sẽ có 6 trụ được tháo ra. Mẫu được chuẩn bị, cắt lát, rồi phân tích mô học và định lượng xương. Sự thâm nhiễm mô và mạch máu được quan sát bên trong lòng lỗ và các tế bào của trụ TM sau 2 tuần lành thương. Sự tân tạo xương và một vài mảnh xương cũ được quan sát bên trong lỗ ngoại vi ở một số mẫu sau 3 tuần lành thương. Sự phát triển xương và mạch máu bên trong các lỗ cũng như sự bám dính xương mới vào bề mặt trong và ngoài của trụ TM đã được quan sát từ tuần 3 đến 12 của sự lành thương. Sau 12 tuần lành thương, tỷ lệ trung bình của xương calci hóa so với tủy xương là 22.74% ở độ sâu 0.5 mm, 16.77% ở độ sâu 1 mm, và 14.95% ở toàn bộ trụ TM còn lại. Xương vẫn tiếp tục phát triển và trưởng thành bên trong các trụ.
Độ sâu thực tế của vật liệu tantalum lỗ rỗ ở implant Trabecular Metal dao động từ khoảng 0.65 đến 0.76 mm, tùy theo đường kính implant. Dựa trên những kích thước này, tỷ lệ trung bình của mô xương bên trong các trụ TM ở độ sâu 0.5 mm, 1mm, và phần còn lại đã được đánh giá (Clemente de Arriba và cộng sự, kết quả chưa được công bố, 2014). Kết quả cho thấy implant Trabecular Metal có khả năng đạt khoảng 23% sự tăng trưởng xương bên trong ở vùng mất rằng bán phần sau 12 tuần lành thương, tùy thuộc vào đường kính implant và vị trí cấy ghép trên xương hàm. Kết quả khoảng 23% tăng trưởng xương bên trong không gây bất ngờ, bởi vì phần lớn các trụ (n = 14/24) đã được đặt ở vùng răng sau là nơi có thể tích xương bè trung bình tại vùng răng cối lớn thứ nhất nằm trong khoảng 24% ở nam và 18% ở nữ. Tương tự, nâng xoang thường đạt khoảng 25% xương sống khi đánh giá mô học sau 6-8 tháng.
Cho đến nay, rất ít dữ liệu bình duyệt được công bố về kinh nghiệm của bác sĩ lâm sàng với implant Trabecular Metal trong thực hành nha khoa hàng ngày. Spinato và cộng sự đã báo cáo về thất bại của một implant Trabecular Metal sau 4 tháng cấy ghép tại vị trí răng cối nhỏ thứ hai hàm trên bên phải ở một bệnh nhân nữ 54 tuổi có tiền sử viêm nha chu mạn mức độ trung bình. Bệnh nhân đã được điều trị bệnh nha chu và implant đã được đặt dưới tình trạng thuận lợi. Sau 4 tháng thì xuất hiện tình trạng viêm quanh implant ở 1/3 cổ implant. Với sự đồng ý của bệnh nhân, implant đã được phẫu thuật lấy ra và đem phân tích mô học, cho thấy sự tạo xương quanh vật liệu TM ở giữa implant nhiều hơn so với quanh cổ implant không lỗ rỗ. TM được bao quanh bởi bè xương ngắn, dày, bao gồm hỗn hợp xương lưới và xương phiến đang tăng trưởng vào bên trong các lỗ ngoại vi của implant.
Cho đến nay, tôi đã đặt 75 implant Trabecular Metal (Zimmer Dental Inc.) cho 35 trường hợp với kết quả đáng khích lệ và không có biến chứng đáng kể. Theo thời gian, cần theo dõi xem liệu TM (Zimmer TMT) có mang lại lợi ích lâu dài nào cho sự bảo tồn xương và thẩm mỹ dựa trên những đặc điểm cơ học đã được ghi nhận của mình hay không.
Nguồn tài liệu: Clinical Cases in Implant Dentistry, First Edition – Published 2017 by John Wiley & Sons, Inc.
Leave a Reply