Bệnh liệt chu kỳ là một bệnh lý thần kinh xảy ra khi các sợi thần kinh bị tổn thương hoặc bị mất liên lạc với phần cơ, dẫn đến mất khả năng di chuyển và điều khiển cơ bắp. Kali máu, là một nguyên tố quan trọng trong cơ thể, có tác dụng quan trọng trong việc điều tiết chức năng cơ và hệ thần kinh. Mối quan hệ giữa bệnh liệt chu kỳ và kali máu là một chủ đề nghiên cứu đang được quan tâm bởi những nhà khoa học và bác sĩ, vì nó có thể giúp trong việc chẩn đoán và điều trị bệnh liệt chu kỳ.
1. Mối quan hệ giữa bệnh liệt chu kỳ và Kali máu:
Liệt chu kỳ thực ra là một nhóm bệnh, có tính chất di truyền, biểu hiện lâm sàng bằng các đợt yếu bại, bệnh có liên quan tới nồng độ kali trong máu, chia ra 3 loại: tăng kali, hạ kali và kali máu bình thường. Kali máu có vai trò quan trọng trong việc điều tiết cơ bắp và hệ thần kinh. Nó giúp cơ bắp hoạt động bình thường và duy trì sự phát triển của các sợi thần kinh. Nếu kali máu bị suy giảm, có thể dẫn đến tình trạng mất khả năng điều khiển cơ bắp, một trong những triệu chứng của bệnh liệt chu kỳ.
Nghiên cứu cho thấy, người bị bệnh liệt chu kỳ thường có mức kali máu thấp hơn so với người khỏe mạnh. Tuy nhiên, cũng có nghiên cứu chỉ ra rằng, mức kali máu có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của các sợi thần kinh và cơ bắp, dẫn đến nguy cơ mắc bệnh liệt chu kỳ. Nghiên cứu cũng cho thấy rằng, một số loại thuốc giảm kali máu có thể gây ra các triệu chứng giống như bệnh liệt chu kỳ.
1.1. Liệt chu kỳ hạ kali máu:
Là bệnh liệt chu kỳ hay gặp nhất, biểu hiện bằng những cơn liệt mềm có kèm hạ kali máu. Di truyền trội theo nhiễm sắc thể thường (autosomal), tỷ lệ nam/nữ là 3-4/1. Gen bệnh nằm ở nhiễm sắc thể Iq31-q32, gây rối loạn kênh vận chuyển Calcium, nhưng còn chưa rõ liên quan của cơ chế này với những cơn hạ kali máu. Đa số khởi phát trước 16 tuổi, có khi trước 10 tuổi. Yếu tố khởi phát cơn liệt: ăn nhiều bột hoặc đường, vận động thể lực nhiều gây mệt mỏi, các yếu tố cảm xúc hoặc lạnh. Bệnh nhân ngủ dậy với cảm giác yếu bại chằn tay, cơn thường kéo dài vài phút tới vài giờ.
Thông thường chỉ có các cơ tứ chi và thân mình bị yếu liệt, đoạn gốc chi bị nặng hơn đoạn ngọn chi. Các cơ mặt, vận nhãn, cơ họng hầu, cơ hoành, các cơ tròn rất ít khi bị ảnh hưởng. Trong cơn phản xạ gân xương và phản xạ da đều giảm hoặc mất. Cảm giác bình thường. Thường vài tuần bị một cơn, càng lớn tuổi thì các cơn càng thưa dần. Rất hiếm khi chết do liệt hô hấp hay rối loạn dẫn truyền trong tim.
Trong cơn liệt nồng độ kali huyết thanh bị giảm, có thể tới 1,8 meq/l, nhưng không phải chỉ riêng hạ kali gây ra liệt, mà hạ kali chỉ là một hiện tượng thứ phát do có những cơ chế khác gây cơn liệt chu kỳ. Dẫn truyền thần kinh bỉnh thường. Điện cơ làm trong liệt hoàn toàn thấy mất hoạt động do đâm kim, không có điện thế của các đơn vị vận động, hoặc có nhưng giảm kết tập rõ rệt. Ngoài cơn liệt, đa số các bệnh nhân không thấy bất thường điện cơ.
Điều trị dự phòng bằng chế độ ăn uống những thứ có chứa nhiều kali và ít muối Natri; chế độ ăn chứa ít bột đường. Tránh ăn một lúc quá nhiều và phơi mình ra trời lạnh. Có thể dự phòng bằng KCl (5-10g/ngày), hoặc acetazolamide. Điều trị cắt cơn bằng uống KCl liều 0,25 mEq/kg cân nặng. Sau 1-2 giờ nếu không có hiệu quả thì truyền tĩnh mạch 0,05-0,1 mEq/kg cân nặng, tránh dùng dịch truyền có glucose hay NaCl.
1.2. Liệt chu kỳ tăng kali máu:
Di truyền trội theo nhiễm sắc thể thân, xếp vào nhóm các bệnh cơ do rối loạn kênh chuyển natri (sodium channel diseases). Bệnh di truyền trội theo nhiễm sắc thể thường, bất thường gen thấy ở nhiễm sắc thể 17q.
Khởi phát ở tuổi sơ sinh hoặc nhi đồng. Các cơn thương xuất hiện sau khi bệnh nhân vận động thể lực, đang ngồi nghỉ ngơi được một lúc. Đầu tiên liệt ở bàn chân, rồi lan dần lên toàn thân. Các coe thuộc dây sọ não ít khi bị, các cơ hô hấp không bị ảnh hưởng. Phản xạ gân xương giảm hoặc mất trong cơn. Cơn kéo dài 15-60 phút, hiếm khi kéo dài vài ngày, phục hồi có thể nhanh hơn nếu bệnh nhân có tập luyện nhẹ thêm. Tuy vậy, khi hết cơn vẫn còn có thể yếu cơ thêm 1-2 ngày nữa. Đến tuổi dậy thì các cơn có thể biến mất
Kali máu thường tăng lên 5-6 mmol/1, natri máu hạ. ECG: sóng T cao. Dẫn truyền thần kinh bình thường, điện cơ có thể có hiện tượng tăng trương lực cơ.
Điều trị: khi cơn kéo dài và nặng, tiêm tĩnh mạch 1-2 g calcium gluconate. Nếu sau vài phút không kết quả thì truyền glucose (có thể kèm insulin). Điều trị duy trì bằng hydrochlorothiazide 0,5g/ngày nhằm duy trì nồng độ kali máu dưới 5 meq/l.
1.3. Liệt chu kỳ kali máu bình thường:
Là bệnh rất hiếm, lâm sàng giống cơn liệt chu kỳ tăng kali máu, nhũng nồng độ kali máu là bình thường, dù trong cơn liệt nặng nhất. Bản chất di truyền của bệnh cũng giống như liệt chu kỳ tăng kali máu.
2. Dự phòng bệnh liệt chu kỳ
Để dự phòng bệnh liệt chu kỳ, cần tuân thủ một số nguyên tắc và thực hiện các biện pháp phòng ngừa như sau:
– Ăn uống lành mạnh:
Chế độ ăn uống lành mạnh và cung cấp đủ dinh dưỡng là rất quan trọng trong việc dự phòng bệnh liệt chu kỳ. Các loại thực phẩm giàu kali bao gồm: chuối, khoai tây, đậu phụng, cà rốt, bông cải xanh, dưa hấu, cam, nho và dưa chuột. Ngoài ra, cần ăn đủ chất đạm, chất béo và các loại vitamin cần thiết cho cơ thể.
– Tập thể dục đều đặn:
Việc tập thể dục đều đặn giúp giữ cho cơ thể khỏe mạnh, tăng cường độ co giãn và sức mạnh của các cơ bắp. Tập thể dục cũng giúp giảm nguy cơ mắc bệnh liệt chu kỳ và các bệnh lý khác.
– Hạn chế sử dụng thuốc giảm kali:
Nếu phải sử dụng thuốc giảm kali, cần lấy theo chỉ định của bác sĩ và theo dõi mức kali máu thường xuyên. Tuy nhiên, nên hạn chế sử dụng thuốc giảm kali để tránh ảnh hưởng đến sức khỏe.
– Điều trị các bệnh lý liên quan đến bệnh liệt chu kỳ:
Các bệnh lý như tiểu đường, bệnh thận, bệnh máu và các bệnh lý thần kinh khác cũng có thể gây ra bệnh liệt chu kỳ. Việc điều trị các bệnh lý này sớm và hiệu quả sẽ giúp giảm nguy cơ mắc bệnh liệt chu kỳ.
– Đi khám bác sĩ định kỳ:
Đi khám bác sĩ định kỳ giúp phát hiện các vấn đề sức khỏe sớm và điều trị kịp thời, giúp giảm nguy cơ mắc bệnh liệt chu kỳ.
Tóm lại, để dự phòng bệnh liệt chu kỳ, cần tuân thủ các nguyên tắc ăn uống lành mạnh, tập thể dục đều đặn, hạn chế sử dụng thuốc giảm kali, điều trị các bệnh lý liên quan và đi khám bác sĩ định kỳ. Việc phòng ngừa bệnh liệt chu kỳ là rất quan trọng để giữ cho cơ thể khỏe mạnh và giảm nguy cơ mắc các bệnh lý liên quan.
Nguồn tham khảo: Thần kinh học – ĐH Y TP Hồ Chí Minh
Leave a Reply