Bạch cầu ái toan và vai trò trong đáp ứng ICS ở bệnh nhân COPD

Bạch cầu ái toan là một loại tế bào miễn dịch có vai trò quan trọng trong phản ứng viêm. Trong điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD), bạch cầu ái toan  được tìm thấy như là một chỉ số quan trọng để đánh giá tình trạng bệnh nhân và dự đoán đáp ứng với điều trị ICS.

1. Tổng quan

Sự không đồng nhất của bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) tạo ra nhiều thách thức trong chẩn đoán, tiên lượng, điều trị và quản lý, vì cơ chế bệnh sinh của COPD rất phức tạp và các cơ chế tế bào và phân tử cơ bản vẫn chưa được hiểu rõ. Một dấu ấn sinh học đáng tin cậy, dễ đo lường, có liên quan đến lâm sàng sẽ là vô giá để cải thiện kết quả cho bệnh nhân. Hướng dẫn quốc tế và quốc gia về COPD gợi ý sử dụng số lượng bạch cầu ái toan trong máu như một dấu ấn sinh học để giúp ước tính khả năng đáp ứng với corticosteroid dạng hít (ICS) và, có khả năng, để hỗ trợ các chiến lược quản lý hiệu quả. Tuy nhiên, với cơ chế liên quan giữa nồng độ bạch cầu ái toan cao hơn và hiệu ứng ICS chưa được biết rõ, việc sử dụng số lượng bạch cầu ái toan trong máu trong COPD tiếp tục được cộng đồng hô hấp tranh luận rộng rãi.

Nhiều nghiên cứu và 2 phân tích tổng hợp cho thấy bạch cầu ái toan trong máu ngoại vi có thể tương quan tốt với khả năng tăng khả năng giảm đợt cấp của ICS trong COPD. Tuy nhiên, các nghiên cứu khác nhau về thiết kế và thời gian và theo đó mức độ bạch cầu ái toan được coi là dự đoán về khả năng phản ứng ICS. Nói chung, phản ứng được tìm thấy khi mức bạch cầu ái toan là 100 – 300 tế bào/µL (hoặc cao hơn). Một số thành công với liệu pháp nhắm mục tiêu interleukin-5 cho thấy kiểu hình bạch cầu ái toan có thể là một đặc điểm có thể điều trị được.

            Nguồn: Eosinophilic inflammation in COPD: from an inflammatory marker to a treatable trait.

2. Đáp ứng với corticosteroids liên quan đến số lượng  bạch cầu ái toan

Số lượng bạch cầu ái toan trong máu rất hữu ích để dự đoán đáp ứng với ICS, và có thể là một đặc điểm có thể điều trị được đối với tần suất đợt cấp với ICS/LABA ở bệnh nhân COPD và có tiền sử đợt cấp trung bình/nặng. Trong các bệnh lý hô hấp khác, mối liên hệ giữa số lượng bạch cầu ái toan và phản ứng corticosteroid cũng đã được chứng minh.

Shim và cộng sự là một trong số những nhà nghiên cứu đầu tiên chỉ ra rằng tăng bạch cầu ái toan đường thở cho thấy khả năng đáp ứng với corticosteroid. Trong một thử nghiệm nhỏ ở những bệnh nhân bị viêm phế quản mãn tính, được điều trị bằng prednisolone hoặc giả dược, những bệnh nhân có lượng bạch cầu ái toan tăng có nhiều khả năng đáp ứng với corticosteroid hơn (p<0,001). Kể từ đó, phát hiện này đã được lặp lại nhiều lần và nhìn chung , áp dụng cho những bệnh nhân có bạch cầu ái toan đường thở >3% mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính ổn định.

Pavord và cộng sự đã tiến hành phân tích hậu kiểm 3 nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng, mỗi nghiên cứu kéo dài ít nhất 1 năm và nhận thấy rằng có phản ứng tốt hơn với ICS/ LABA so với giả dược hoặc LAMA, ở những bệnh nhân có mức bạch cầu ái toan trong máu trước điều trị ≥2% (RR=0,75 và 0,63; p=0,006 và <0,001) so với những bệnh nhân có mức <2% (RR=0,75 và 0,63; p=0,006 và <0,001).

Trong khi các phân tích hậu định này sử dụng ngưỡng nhị phân cho mức bạch cầu ái toan, một phân tích hậu định gần đây của Bafadhel và cộng sự  bao gồm một bộ dữ liệu lớn từ 3 nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng so sánh ICS/LABA với LABA ở bệnh nhân với COPD, cho thấy số lượng bạch cầu ái toan là một biến số liên tục. Hơn nữa, các tác giả này đã báo cáo hiệu quả điều trị đáng kể đối với ICS (p=0,015) tăng lên cùng với số lượng bạch cầu ái toan trong máu từ >100 tế bào/µL.

Việc sử dụng số lượng bạch cầu ái toan để hỗ trợ việc ra quyết định lâm sàng liên quan đến điều trị ICS được thấy trong nghiên cứu các khuyến nghị GOLD 2021 gần đây, theo đó những bệnh nhân có số lượng bạch cầu ái toan trong máu >300 tế bào/µL có cơ hội đáp ứng với điều trị bằng ICS tốt. Tuy nhiên, viêm đường hô hấp do bạch cầu ái toan không phải lúc nào cũng đáp ứng với ICS. Mặc dù điều trị bằng ICS, nhiều bệnh nhân bị hen suyễn tăng bạch cầu ái toan nặng có viêm đường thở dai dẳng loại 2.

Nghiên cứu ISOLDE69 đã nghiên cứu tốc độ giảm thể tích thở ra gắng sức trong một giây (FEV1) khi sử dụng ICS. Vì nghiên cứu này diễn ra trước khi LABA được sử dụng rộng rãi, nó độc đáo ở chỗ nó chỉ phân tích tác dụng của ICS chứ không phải kết hợp với các loại thuốc hít khác. Phân tích lại dữ liệu ISOLDE cốt lõi70 cho thấy việc sử dụng ICS ở những bệnh nhân có số lượng bạch cầu ái toan trong máu cao hơn (≥2%) có liên quan đến tốc độ giảm FEV1 chậm hơn (tuy nhiên, điều bất thường là dường như không có tác động đến tốc độ đợt cấp). Tuy nhiên, hiệu ứng này không được thấy trong tất cả các nghiên cứu. Những người hút thuốc, cho dù họ bị hen suyễn hay COPD, thường không đáp ứng tốt với ICS như những người không hút thuốc. Tuy nhiên, những phát hiện từ các phân tích hậu định của các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng về ICS/LABA65 và ICS/LABA/LAMA72 đã chỉ ra rằng mức độ đáp ứng với ICS ở những người hút thuốc, trong bối cảnh giảm đợt cấp, là lớn nhất ở những người có mức bạch cầu ái toan cao hơn. Ngay cả ở những bệnh nhân COPD không đáp ứng với ICS, các bác sĩ chăm sóc ban đầu có thể miễn cưỡng ngừng thuốc này, có thể phản ánh ảnh hưởng của hướng dẫn quốc gia trước đây.

Nguồn tham khảo:

Eosinophilic inflammation in COPD: from an inflammatory marker to a treatable trait


Posted

in

,

by

Tags:

Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *