Di căn não xảy ra ở 15% đến 24% phụ nữ bị ung thư vú di căn. Điều khó khăn trong phương pháp trong điều trị di căn não là nhiều loại thuốc không thể xuyên qua hàng rào máu não. Mong rằng bài viết dưới đây có thể cung cấp một số phương pháp điều trị thích hợp về bệnh.
1. Phương pháp điều trị toàn thân
Các lựa chọn điều trị toàn thân là những lựa chọn được sử dụng để điều trị ung thư bất kể khối u nằm tại cơ quan nào trong cơ thể bạn. Các phương pháp điều trị toàn thân có thể bao gồm:
1.1 Hóa trị
Hóa trị thường được sử dụng cho bệnh ung thư vú di căn, thường sử dụng các loại thuốc khác với những loại thuốc đã dùng nếu người bệnh đã hóa trị trước đó.
Như đã lưu ý, nhiều tác nhân hóa trị không xuyên qua hàng rào máu não, nhưng thường di căn đến các vùng khác cùng với di căn não. Nó cũng có thể giúp giảm nguy cơ di căn xa hơn lên não.
1.2 Liệu pháp nội tiết tố
Liệu pháp nội tiết tố cho ung thư vú di căn có thể được khuyến nghị nếu khối u dương tính với thụ thể estrogen. Việc sử dụng các loại thuốc này phụ thuộc vào việc có sử dụng liệu pháp nội tiết tố trước đó hay không và nếu có thì đang sử dụng loại thuốc nào.
Khi ung thư vú di căn, không có gì lạ khi tình trạng thụ thể thay đổi (Ví dụ: một khối u dương tính với thụ thể estrogen trước đây có thể là thụ thể estrogen âm tính và ngược lại. Người ta thường cho rằng nếu đang điều trị bằng một liệu pháp nội tiết tố cụ thể khi ung thư di căn, thì khối u sẽ kháng lại loại thuốc đó. Không giống như nhiều lựa chọn điều trị, tamoxifen và chất ức chế aromatase dường như vượt qua hàng rào máu não.
1.3 Liệu pháp nhắm mục tiêu
Các lựa chọn điều trị cho bệnh ung thư vú dương tính với HER2 di căn phụ thuộc vào loại thuốc bệnh nhân đã sử dụng khi khối u di căn, nếu có. Giống như trạng thái thụ thể estrogen, trạng thái HER2 có thể thay đổi, do đó khối u dương tính với HER2 trước đó có thể âm tính với HER2 khi nó lan đến não và ngược lại.
Hai trong số các loại thuốc mới hơn, đã được chứng minh là rất hiệu quả là:
- Tukysa (tucatinib): HER2 là một loại protein được gọi là kinase. Tukysa là một chất ức chế kinase, do đó nó ngăn chặn các protein này. Nó được dùng ở dạng thuốc viên, thường là hai lần một ngày và thường được dùng cùng với trastuzumab và thuốc hóa trị capecitabine sau khi thử ít nhất một loại thuốc nhắm mục tiêu chống HER2 khác.
- Enhertu (fam-trastuzumab deruxtecan): Hỗn hợp kháng thể-thuốc này có thể được sử dụng để điều trị ung thư vú HER2 dương tính và HER2 thấp không thể phẫu thuật cắt bỏ hoặc đã di căn. Nó được quản lý bởi IV, thường là sau khi ít nhất một loại thuốc hoặc hóa trị liệu nhắm mục tiêu chống HER2 khác đã được thử.
Đối với những người trước đây chưa được điều trị nhắm mục tiêu HER2, điều trị bằng Herceptin (trastuzumab) hoặc Perjecta (pertuzumab) có thể cải thiện khả năng sống sót. Nếu di căn não phát triển trong khi đang dùng Herceptin (hoặc trong vòng 12 tháng sau khi ngừng thuốc), thuốc T-DM1 (trastuzumab emtansine) được phát hiện là cải thiện đáng kể khả năng sống sót. Thật không may, các liệu pháp nhắm mục tiêu HER2 thường không vượt qua hàng rào máu não.
Sự kết hợp của Tykerb (lapatinib) và Xeloda (capecitabine) cũng có thể được sử dụng, nhưng dường như chỉ dẫn đến sự cải thiện khiêm tốn với độc tính đáng kể (mặc dù những loại thuốc này dường như vượt qua hàng rào máu não). Có vẻ như Tykerb có thể hoạt động tốt hơn khi kết hợp với Xeloda so với khi sử dụng riêng lẻ.
Hiện nay, sự kết hợp của các phương pháp điều trị trên, cũng như các loại thuốc mới hơn như thuốc trị liệu miễn dịch và thuốc ức chế PARP, đang được nghiên cứu trong các thử nghiệm lâm sàng đối với bệnh ung thư vú giai đoạn 4
2. Các phương pháp điều trị tại chỗ
Đây phương pháp điều trị di căn não tại vị trí cụ thể và thường được khuyến nghị nhất nếu di căn não gây ra các triệu chứng đáng kể hoặc nếu chỉ có một vài di căn với mục tiêu loại bỏ di căn. Khi có nhiều di căn, mục tiêu là giảm triệu chứng (giảm nhẹ). Chỉ với một vài di căn, việc loại bỏ di căn có thể được thực hiện với mục tiêu cải thiện khả năng sống sót (với mục đích chữa bệnh).
Nói chung, người ta cảm thấy rằng các phương pháp điều trị tại chỗ chuyên sâu hơn (chẳng hạn như SBRT (xạ trị lập thể) và phẫu thuật cắt bỏ di căn) nên được xem xét chủ yếu cho những người được cho là sẽ sống sót sau hơn 6 đến 12 tháng.
2.1 Xạ trị toàn bộ não (WBRT)
Xạ trị toàn bộ não (Whole Brain Radiation Therapy) đã không còn được ưa chuộng trong những năm gần đây vì các tác dụng phụ .Được khuyên dùng hiện nay cho những người bị di căn não lan rộng đang gây ra các triệu chứng đáng kể. Những thay đổi về nhận thức, chẳng hạn như các vấn đề về trí nhớ, khả năng nhớ lại ngay lập tức và khả năng nói lưu loát là rất phổ biến và gây khó chịu cho những người phải đối mặt với những triệu chứng này. Vì chất lượng cuộc sống tốt thường là mục tiêu quan trọng nhất trong điều trị ung thư vú di căn, nên việc sử dụng WBRT cần được cân nhắc cẩn thận về lợi ích và rủi ro.
2.2 Xạ trị cơ thể lập thể (SBRT)
SBRT (Stereotactic Body Radiation Therapy) sử dụng một liều phóng xạ cao đến một vùng mô nhỏ để cố gắng loại bỏ di căn. Phương pháp này thường được sử dụng khi chỉ có một vài di căn, nhưng một số trung tâm đã điều trị cho những người có tới 10 di căn cùng một lúc. Quy trình này cũng có thể được lặp lại để điều trị các di căn bổ sung hiện có hoặc xảy ra theo thời gian.
SBRT có thể là một lựa chọn tốt hơn so với phẫu thuật đối với những di căn nằm sâu trong não hoặc ở những vùng nhạy cảm mà phẫu thuật sẽ gây ra quá nhiều tổn thương cho mô não khỏe mạnh. Hiệu quả nhất với các di căn nhỏ và phẫu thuật có thể là lựa chọn tốt hơn cho các di căn có đường kính lớn hơn 3 cm. SBRT làm suy giảm nhận thức ít hơn so với xạ trị toàn bộ não, một số tác dụng phụ có thể xuất hiện như hoại tử do bức xạ.
2.3 Phẫu thuật khi ung thư vú di căn não
Phẫu thuật để loại bỏ một hoặc chỉ một vài di căn (được gọi là phẫu thuật cắt bỏ di căn) đã được sử dụng trong những năm gần đây và có thể cải thiện khả năng sống sót khi được sử dụng cho những người phù hợp với thủ thuật (chỉ có một vài di căn và có sức khỏe tốt). Phẫu thuật có thể là một lựa chọn tốt hơn (so với SBRT) đối với các di căn lớn (đường kính lớn hơn 3 cm).
Không giống như SBRT, phẫu thuật có kết quả ngay lập tức có thể làm giảm phù não. Tuy nhiên, có nguy cơ tổn thương thần kinh cao hơn, cũng như nguy cơ “lây lan khối u” (lây lan các tế bào ung thư qua não) khi phẫu thuật.
3. Các phương pháp điều trị khác
Khi di căn não lan rộng hoặc kèm theo di căn lan rộng ở các vị trí khác dẫn khi việc điều trị không còn ý nghĩa. Lựa chọn phương pháp chăm sóc giảm nhẹ để kiểm soát các triệu chứng và duy trì chất lượng cuộc sống tốt nhất với thời gian còn lại vẫn cực kỳ quan trọng.
Lựa chọn ngừng điều trị, không can thiệp không có nghĩa là đang từ bỏ. Thay vào đó, điều này có nghĩa là đang lựa chọn để có một cuộc sống chất lượng nhất ở hành trình cuối đời.
4. Tiên lượng bệnh
Di căn não có xu hướng phát triển nhanh. Tuy nhiên, di căn não do ung thư vú có tiên lượng tốt hơn so với di căn não do một số bệnh ung thư khác.
Trước đây, thời gian sống sót với di căn não chỉ khoảng 6 tháng nhưng điều này đang thay đổi. Một nghiên cứu năm 2016 cho thấy tỷ lệ sống sót chung đối với bệnh ung thư vú di căn não (tất cả các loại kết hợp) là hơn 2 năm một chút, với kỳ vọng sống là 3 năm đối với những người có khối u dương tính với HER2.
5. Kết luận
Cần cân nhắc lựa chọn phương pháp điều trị phù hợp nhất cho mỗi bệnh nhân phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm tuổi, tình trạng sức khỏe, tần suất và thời gian xuất hiện của các triệu chứng.
Quan trọng là bệnh nhân cần thường xuyên đi khám, phát hiện sớm và theo dõi tình trạng bệnh để có những phương pháp điều trị kịp thời và hiệu quả nhất.
Nguồn verywellhealth
Leave a Reply