Tổng quan về mô ghép trong Implant.

Mô ghép được ứng dụng rất nhiều trong phẫu thuật Nha khoa, có thể kể đến với trường hợp phẫu thuật Implant vùng mô bị thiếu hổng, khó có thể thực hiện hoặc thực hiện gây ra nhiều rủi ro đối với bệnh nhân. Bài viết này giới thiệu chung về mô ghép, đồng thời liệt kê một số hệ thống dạng mô ghép đang được sử dụng trong thị trường. Cùng tìm hiểu.

1. Giới thiệu chung về mô ghép trong Implant

Đòi hỏi quan trọng nhất của sự thành công implant là có đủ thể tích xương với mật độ dày đặc để có thể đặt một implant với kích cỡ thích hợp vào một vị trí và chiều hướng như mong muốn. Đôi khi cũng cần dùng những kỹ thuật phức tạp hơn để thay đổi toàn bộ profile sống hàm, điều này có thể bao gồm cả sự thay đổi ở nền xương.

Ngoài những thành phần xương rõ rang cho vấn đề này, cũng có nhiều trường hợp mô mềm của vùng đặt implant bị thiếu hổng. Mô mềm đóng một vai trò sống còn trong việc duy trì sức khỏe của vùng quanh implant và cũng góp phần lớn vào kết quả thẩm mỹ, đặc biệt ở vùng răng cửa. Mô mềm quanh implant phải được duy trì hoàn toàn trong suốt quá trình thực hiện chức năng bình thường và vệ sinh răng miệng.

Vì vậy, mô ghép được dùng để:

  • cho phép đặt implant
  • làm tăng thẩm mỹ và cải thiện mô mềm
  • thay đổi tương quan của hàm

Các giai đoạn lập kế hoạch ban đầu được mô tả trong các chương trước được đưa lên mức độ quan trọng hơn trong những case ghép tiềm năng. Bởi bản chất riêng biệt của những case này, chúng ta gặp khó khăn hơn khi lập kế hoạch và thực hiện, kết quả sau cùng có khả năng thất bại cho cả bác sỹ và bệnh nhân. Điều quan trọng là tất cả các giải pháp phải được cân nhắc và trình bày cho bệnh nhân hiểu để họ có thể đưa ra quyết định liên quan đến điều trị của họ. Đặc biệt, chúng ta cần cân nhắc xem liệu một giải pháp thỏa hiệp bằng cách dùng phục hình có phải là điều mong muốn và đạt được tiên lượng tốt hơn trong thời gian dài hay không. Một lựa chọn khác là xem xét liệu việc sử dụng các thiết kế implant khác nhau để khắc phục được vấn đề hay không.

2. Vật liệu ghép xương

Mức độ ghép xương để đặt implant khác nhau tùy theo trường hợp thiếu hổng tại chỗ hay trường hợp cần thay đổi toàn bộ profile cung hàm và/hoặc tương quan hai hàm. Do đó, có nhiều kỹ thuật và vật liệu tuyệt vời để làm cho thủ thuật ghép được dễ dàng và nhiều loại trong số đó có thể sử dụng kết hợp với nhau. Sự tương tác giữa mô ghép và xương xung quanh vùng ghép là rất quan trọng và là chủ đề của nhiều nghiên cứu.

Mặc dù một số mô ghép chỉ hoạt động đơn thuần như là chất độn khoảng trống, mô ghép lý tưởng sẽ kích tạo xương (osseoconductive) và kích dẫn xương (osseoinductive). Sự kích tạo xương (osseoconduction) là đặc tính của sự thúc đẩy xương phát triển từ xương xung quanh vùng ghép lên bề mặt của vật liệu ghép, sử dụng mô ghép như một cái khung. Vật liệu ghép trong trường hợp này có thể được tái hấp thụ hoặc vẫn hầu như còn nguyên vẹn, tùy thuộc vào vật liệu sử dụng. Sự kích dẫn xương (osseoinduction) là khả năng thúc đẩy hình thành xương ở xa vùng ghép ngay cả trong mô không khoáng hóa. Protein tạo hình thái xương và các yếu tố thúc đẩy xương khác có đặc tính thứ hai này và được sử dụng ngày nhiều để tối ưu hóa hiệu quả của vật liệu ghép xương.

Ghép xương tự thân

Xương tự thân luôn có sẵn cho nên nó là sự lựa chọn đầu tiên của nhiều bác sĩ lâm sàng trong việc ghép xương. Tuy nhiên, lượng bệnh nhân chấp nhận lấy xương tự thân có thể rất thấp, do những kỹ thuật này có khả năng ảnh hưởng sức khỏe. Mặc dù một số lượng lớn các nghiên cứu lâm sàng và thời gian đã được bỏ ra trong nhiều năm để phát triển vật liệu thay thế cho xương tự thân, nó vẫn là tiêu chuẩn vàng mà dựa vào đó tất cả các vật liệu khác được đánh giá và duy trì sự lựa chọn vật liệu cho các tác giả hiện nay. Lợi thế chính của nó là như sau:

  • Có sẵn
  • Vô trùng
  • Tương hợp sinh học
  • Có khả năng kích tạo xương
  • Có khả năng kích dẫn xương
  • Dễ dàng sử dụng

Những khó khăn chính như sau:

  • Thể tích có sẵn hạn chế, đặc biệt ở trong miệng
  • Cơ hội có vùng cho xương tốt
  • Đau sau mổ và di chứng phẫu thuật khác
  • Có khả năng tổn thương các cấu trúc lân cận

Mô ghép hoạt động như một giàn khung cho các mạch máu trồi lên và như là một nguồn tế bào xương nguyên phát và phân tử kích thích xương (bone-inducing molecules). Cuối cùng, mô ghép được tái hấp thụ như là một phần của xương bình thường.

Vật liệu ghép khác

Mặc dù tiêu chuẩn vàng cho ghép xương vẫn là xương của bệnh nhân, nhưng những hạn chế về lượng xương có sẵn (đặc biệt là từ các vùng khác với mào chậu) và các biến chứng liên quan đến kỹ thuật lấy xương cho thấy vẫn còn nhu cầu rất lớn về vật liệu ghép thay thế. Xenografts (vật liệu dị chủng) có nguồn gốc từ một loài khác, mô ghép đồng chủng (allografts) từ một thành viên của cùng một loài, và alloplasts là vật liệu tổng hợp.

Các cấu trúc vĩ mô và vi mô của các mô ghép có ảnh hưởng to lớn đối với hiệu quả của chúng. Đường kính lỗ và thể tích đặc biệt quan trọng. Các đặc tính lý tưởng của một vật liệu ghép xương đã được mô tả (HAMMERLE, 1999) như sau:

  1. Vô trùng
  2. Không độc
  3. Không gây miễn dịch
  4. Kích tạo xương hoặc kích dẫn xương
  5. Xử lý lâm sàng thuận lợi
  6. Sự tiêu và thay thế bởi xương chủ
  7. Nhân tạo
  8. Có sẵn với số lượng đủ
  9. Chi phí thấp

Mô ghép đồng loại

Xương có nguồn gốc từ tử thi đã được sử dụng rộng rãi trong chỉnh hình và cấy ghép nha khoa cũng như nha chu. Mô ghép có thể được đông lạnh khô hoặc mô ghép là xương khử khoáng đông khô (DFDBA), cả hai đều được cho là một nguồn cung cấp protein hình thái xương. Nó được lấy từ những người hiến tặng có tình trạng bệnh sử tốt và được kiểm tra tất cả các kháng nguyên nhiễm trùng phổ biến và được coi là một nguồn an toàn của vật liệu ghép.

Các mô ghép được sản xuất như các loại hạt với kích thước các hạt đồng nhất vừa phải hoặc như dạng lá và dạng khối lớn. Những loại này thuộc dạng kích dẫn xương, chúng cung cấp một cái khung cho sự tăng trưởng xương mới, và cần được tái hấp thụ như là một phần bình thường của xương nhưng một ít xương ghép vẫn còn tồn tại nguyên vẹn sau khi ghép một thời gian . Khả năng kích thích hình thành xương mới (kích tạo xương) của DFDBA là chủ đề của rất nhiều nghiên cứu với kết quả mâu thuẫn nhau. Đây được cho là một phần do sự khác biệt trong cách con người phản ứng với vật liệu ghép trái ngược với mẫu thuộc động vật, cũng như sự khác biệt về nguồn gốc và cách xử lý mô ghép DFDBA. Những lá xương khử khoáng có độ dày khác nhau từ 20 đến 700 um, và những lá dày từ 100 đến 300km có tính chất vật lý tương tự như màng polytetrafluoro ethylene (PTFE) gốc, Gore-Tex (WL Gore & Associates, Flagstaff, Arizona, Mỹ), cho phép chúng được sử dụng như màng trong thủ thuật tái tạo xương có hướng dẫn (GBR).

Mặc dù các kiểm tra trên người hiến tặng rất nghiêm ngặt, vẫn còn khả năng xảy ra một số trường hợp mắc bệnh từ mô ghép, và việc phát triển các nguồn nguyên liệu ghép khác được mong đợi sẽ làm giảm nhu cầu mô ghép đồng loại trong tương lai.

Khoáng xương bò khử protein

Hầu như được sử dụng rộng rãi nhất và được ghi nhận là vật liệu Bio-Oss® (Geistlich Pharma, Wolhusen, Switzerland), nó có nguồn gốc từ xương bò khử protein.

mo-ghep-1
Cấu trúc vi thể của mô ghép Bio-Oss® – Geistlich Pharma, Wolhusen, Switzerland

Xương bò khử protein có đặc tính tương tự như xương xốp của người, cả trong cấu trúc vỹ mô và dạng tinh thể (crystalline content). Các tính chất vật lý cũng gần với xương mà nó sẽ thay thế. Là một mô ghép khoáng hóa hoàn toàn nó kích dẫn xương và được cho là sẽ tiêu đi, mặc dù điều này được nhận thấy rất ít. Khi được sử dụng ở dạng hạt nó được trộn lẫn với máu của bệnh nhân và nhét đầy vào trong lỗ hổng. Một số tác giả đã mô tả kết quả được cải thiện khi kết hợp với một lớp màng để bảo vệ cục máu đông.

Vì xương bò khử protein có sẵn với số lượng lớn, nên nó được sử dụng trong nâng xoang thay vì ghép tự thân. Các hạt cũng có thể được sử dụng như một chất độn để tăng kích thước của vật liệu ghép tự thân. Ngoài ra, vật liệu ghép có bán sẵn dạng tấm xương mỏng để che và bảo vệ các khuyết hổng trong khi giữ lại profile của chúng như đã mô tả ở trên để ghép vật liệu đồng loại. Bio-Oss sử dụng kết hợp với một màng collagen kép có nguồn gốc từ lợn đã được ghi nhận như là một kỹ thuật làm rộng vùng cấy ghép implant ở vùng thẩm mỹ nhưng kỹ thuật này chưa được so sánh với các kỹ thuật khác thông qua một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên.

Bio-Oss Collagen là phiên bản mới nhất của vật liệu này kết hợp giữa xương và collagen để sản xuất một khối vật liệu có thể được chạm khắc theo profile hoặc sử dụng như một mô ghép dạng hạt. Sự dễ dàng thao tác và ít gây khó chịu cho bệnh nhân làm cho vật liệu ghép này hấp dẫn đối với nhiều bác sĩ lâm sàng.
Việc sử dụng các vật liệu nguồn gốc từ bò và động vật khác, mặc dù hình thức hoàn toàn khoáng hóa và không có kháng nguyên , vẫn không thể được chấp nhận hoàn toàn đối với một số bác sĩ lâm sàng hoặc một số bệnh nhân.

Vật liệu ghép Alloplastic

Vật liệu tổng hợp được sản xuất có lợi thế là không có nguy cơ lây nhiễm chéo nhưng vẫn có thể dẫn đến một phản ứng kháng nguyên. Tính chất vật lý của chúng được xử lý ở một mức độ tuyệt vời và chúng cũng có thể được sử dụng kết hợp với các phân tử thúc đẩy xương để nâng cao hiệu quả của chúng. Chúng hoạt động như một cái khung cho sự hình thành xương trên bề mặt và do đó kích dẫn Chúng bao gồm những thành phần sau đây:

  • Hydroxyapatite
  • Calcium phosphate
  • Tricalcium phosphate (TCP)
  • Kính hoạt tính sinh học (Bioactive glasses)

Đây là một lĩnh vực ngày càng mở rộng với các sản phẩm mới được giới thiệu trên thị trường hầu như hàng ngày. Mặc dù nhiều sản phẩm có thể được sử dụng riêng lẻ mình nó, nhưng ngày càng nhiều sản phẩm kết hợp được sử dụng, đôi khi việc bổ sung collagen để tối ưu hóa các đặc tính chung của vật liệu. Một số sản phẩm đã được giới thiệu, chúng là chất dẻo tại thời điểm ghép và sau đó hình thành một dạng mô ghép rắn có profile tối ưu và không cần màng che phủ. Có rất ít sản phẩm này đã được áp dụng thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên so sánh chúng với ghép xương tự thân.

Nguồn: Implant trong thực hành Nha khoa – Richard D.Palmer/Nhóm dịch Saigon Young Dentists Việt Nam


Posted

in

,

by

Tags:

Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *