Nâng xoang kín trong phẫu thuật Implant nha khoa.

Một kỹ thuật tinh tế hơn trong phẫu thuật Implant – Nâng xoang kín, đã được mô tả bởi Summers, sử dụng osteotome đặc biệt để gõ xương vùng chóp xuyên qua vùng khoan xương nhưng để giữ nó dưới màng xoang, kỹ thuật này giúp duy trì trụ Implant được tốt hơn, bảo vệ xoang và khắc phục những ưu điểm của phương pháp nâng xoang truyền thống. Cùng tìm hiểu.

1. Tổng quan chung về thủ thuật

Mất chiều cao sống hàm, đặc biệt là khi kết hợp với sàn xoang hàm trên bị thòng xuống do mất răng sau, có nghĩa là thường xuyên thiếu chiều cao xương để đặt implant. Đó cũng là những ca mà xương còn lại trong vùng này có chất lượng kém.

Nâng xoang được phát triển bởi Tatum trong cuối những năm 1970 để khắc phục những vấn đề này và đã được sử dụng với những thành công lớn trên toàn thế giới theo các nguyên tắc của ông ấy. Có rất ít bằng chứng về sự rối loạn dẫn lưu chất tiết của xoang sau thủ thuật này. Trong phương pháp cổ điển, một cửa sổ hoặc cửa sập xương được tạo ra ở mặt ngoài để đi vào xoang. Điều quan trọng là có X quang rõ ràng trước phẫu thuật để hiển thị hình thể của xoang, đặc biệt là sự hiện diện của của xoang bất kỳ trụ xương hoặc vách xương có thể cản trở việc lật cửa sổ xương lên. Ngoài ra, nó rất hữu ích để xác định kích thước ngoài trong đảm bảo rằng nếu một cửa sập xương được tạo ra nó sẽ có không gian để xoay vào bên trong xoang. Sự hiện diện của bất kỳ bệnh nào của xoang hoặc có tiền sử viêm xoang tái phát nghiêm trọng là chống chỉ định đối với thủ thuật này. Thủ thuật có thể được thực hiện dưới gây tê tại chỗ, và sử dụng các khối dưới ổ mắt được ủng hộ (gây tê bằng đường dưới ổ mắt). Lối vào tốt có được thông qua đường rạch mô mềm trên một nền rộng mà ranh giới của nó cách xa điểm đi vào xoang Thông thường, các vách xoang mỏng và xoang có thể được thấy như là một vùng màu xám hơi xanh trên bề mặt xương. Điều này là giúp ích trong việc phác họa các vùng để tạo cửa sổ, vùng này phải mở được vào trong xoang nếu không nó sẽ không thể nào nạy được một cửa sập xương và/hoặc màng xoang. Trường hợp vách xoang dày bác sĩ phẫu thuật phải dựa vào phim X quang trước phẫu thuật hoặc chụp cắt lớp (CT) để vẽ ra ranh giới của cửa sổ xương. Cửa sổ nên mở rộng theo chiều gần xa và rộng bằng vùng đặt implant. Nếu có một vách xương, ta cần tạo ra hai cửa sổ riêng biệt hoặc sử dụng một phương pháp khác. Khi nâng một cửa sập xương (trapdoor), tốt nhất nên tạo đường viền với mũi khoan phẫu thuật kim cương, bơm rửa thật nhiều nước, vô cùng cẩn thận để không thủng màng xoang bên dưới.

2. Nâng xoang kín – Phương pháp thực hiện

Implant thường được đặt với phần chóp kéo dài trong xoang vài milimet khi cố tạo ổn định bằng liên kết hai vỏ xương (bicortical stabilization) ở hàm trên mà không có bất kỳ vấn đề nào khác liên quan. Những nỗ lực để nâng màng xoang thông qua vùng khoan xương đã được mô tả và xương tụ lại quanh chóp implant cũng đã được thấy. Một kỹ thuật tinh tế hơn đã được mô tả bởi Summers, sử dụng osteotome đặc biệt để gõ xương vùng chóp xuyên qua vùng khoan xương nhưng để giữ nó dưới màng xoang.

nang-xoang-kin-1
(A) Sàn xoang được nâng lên ở các vùng khoan xương sử dụng kỹ thuật Summers. Bằng cách đẩy một nút xương ở phía chóp với osteotome, màng xoang có thể được tách rời khỏi sàn xoang mà vẫn còn nguyên vẹn. (B) Một bộ các osteotome Astra Tech cho thủ thuật nâng xoang kín. Tay cầm được làm thành dạng tay quay để cải thiện khả năng vào những vùng khó và đầu được làm lõm để hỗ trợ cắt và nén xương. (C) X quang trước phẫu thuật của hàm trên bên trái cho thấy chiều cao xương ít hơn 5 mm. (D) X quang sau phẫu thuật một tuần sau khi nâng xoang kín. (E) X-quang sau khi phục hình cho thấy xương hợp nhất xung quanh implant và tăng chiều cao xương dưới đáy xoang.
nang-xoang-kin-2
Một loạt các hình ảnh lâm sàng cho thấy quá trình khoan và dùng osteotome cho implant Astra Tech đường kính 4 mm. (A) Khoan hướng dẫn để đánh dấu. (B) Mũi khoan xoắn 2mm dùng để xuyên thủng xương vỏ và xác định mật độ của xương xốp. Nếu có lực kháng lại tối thiểu, chỉ khoan giới hạn trong xương vỏ. (C) Một osteotome 2,5-mm được dùng và vỗ nhẹ nhàng về phía chóp, và được giữ cách sàn xoang 2 đến 3 mm để tạo một nút xương ở phần chóp của lỗ khoan. (D) Với xương vỏ chất lượng tốt, mũi khoan hướng dẫn 3,2 mm được dùng để mở xương vỏ nhiều hơn nữa. Trong vùng có chất lượng xương vỏ kém một osteotome đường kính 2.5 / 3.2 có thể được sử dụng để nén và làm kết xương vỏ cũng như xương xốp lại. (E) Cây osteotome 3,2 mm được đưa vào và đi tới độ sâu của cây osteotome 2,5 mm trước. (F) Mũi hướng dẫn 3,7 mm hoặc một osteotome 3,2 / 3,7 mm được dùng để mở rộng xương vỏ hơn nữa. (G) Cây osteotome 3,7 mm đi vào và được dùng để phá vỡ sàn xoang dưới áp lực gián tiếp thông qua nút xương phía chóp. Trước khi đẩy xuyên qua lần sau cùng, nút có thể được tăng cường với vụn xương hoặc vật liệu ghép khác tại các vùng xương mật độ thấp. (H) Sửa soạn vùng đặt implant. Sự nguyên vẹn của màng xoang được kiểm tra nhẹ nhàng với một cây đo độ sâu. (I) Một implant Astra Tech đường kính 4 mm dài 9 mm trong vùng mà trước đây chiều cao xương chỉ có 5 mm.

Một sự kết hợp của khoan xương ổ vỏ và một phần của xương ổ răng phía trên có thể làm giảm lực cần thiết để đạt được thành công với kỹ thuật này. Nén xương hoặc đặt những mảnh xương, vụn xương trong vùng khoan xương trước khi xuyên qua sàn xoang sẽ làm mất hết lực của osteotome và ít có khả năng làm thủng màng xoang. Sự tách ra của sàn xoang tại mỗi điểm đặt implant như vậy có thể đạt được độ cao đáng kể. Implants có thể được đặt ngay lập tức với kỹ thuật này nếu chiều cao sống hàm có sẵn là 5mm, mặc dù kỹ thuật này được báo cáo là thành công trong những vùng có chiều cao ít hơn 4 mm.

Nguồn: Implant trong thực hành Nha khoa – Richard D. Palmer/Nhóm dịch Saigon Young Dentists Việt Nam


Posted

in

,

by

Tags:

Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *