Nội soi tiêu hoá đóng một vai trò quan trọng trong y học, đặc biệt nội soi tiêu hóa lại càng đóng vai trò quan trọng hơn, không thể thiếu được trong chẩn đoán và điều trị một số bệnh lý tiêu hóa. Máy nội soi tiêu hóa đã từng bước phát triển từ thô sơ đến hiện đại nhờ sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ.
1. Sơ lược về sự phát triển nội soi tiêu hoá ống mềm
Trong những thập niên 30 đến 60 của thế kỷ trước, nội soi tiêu hóa có phát triển nhưng hầu hết chỉ giúp ích cho việc chẩn đoán một số bệnh lý tiêu hóa thông thường. Từ năm 1970 đến nay nội soi tiêu hóa ngày càng phát triển mạnh mẽ có thể chẩn đoán được một số bệnh lý từ đơn giản đến phức tạp đặc biệt trong chẩn đoán sớm bệnh lý ung thư đường tiêu hóa góp phần tầm soát, cải thiện khả năng sinh tồn và có thể điều trị khỏi bệnh lý ác tính này. Bên cạnh những tiến bộ trong chẩn đoán, nội soi tiêu hóa đã được ứng dụng trong điều trị những bệnh lý tiêu hóa thường gặp như cắt polyp ống tiêu hóa qua nội soi, cầm máu qua nội soi, gắp sỏi qua nội soi mật tụy ngược dòng, mở thông dạ dày nuôi ăn qua nội soi … và gần đây với kỹ thuật cắt hớt niêm mạc dạ dày trong điều trị ung thư sớm của dạ dày.
- 1932 Wolf, Schindler, Lange đã trình bày và sử dụng lần đầu tiên đèn soi dạ dày nửa cứng nửa mềm.
- 1958 Hirschowitz sử dụng ống soi mềm hoàn toàn, mở ra một thời đại phát triển mới cho ngành nội soi.
- 1970 nội soi can thiệp cắt polyp, soi đại tràng ống mềm.
- 1973 Kawai, Classen lần đầu tiên cắt cơ vòng Oddi 1979 Soehendra đặt dẫn lưu đường mật.
- 1980 siêu âm nội soi
- 1983 nội soi video
Đầu thế kỷ XXI có một số phương pháp nội soi đặc biệt được áp dụng như nội soi viên nang, nội soi sử dụng ánh sáng dải hẹp (NBI : Narrow Band Imaging), nội soi có kết hợp với laser (CEM : Confocal endomicroscopy), nội soi ngã mũi. Với những phương pháp mới này đã giúp chuyên ngành nội soi phát triển vượt bậc trong lĩnh vực chẩn đoán và điều trị.
Tại Việt Nam, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec với hệ thống SpyGlass đã mở ra triển vòng điều trị mới cho các bệnh nhân bị bệnh lý mật tuỵ, giảm các biện pháp can thiệp xâm lấn, đem lại chất lượng sống tốt hơn cho bệnh nhân.
2. Cấu tạo máy nội soi ống mềm
2.1. Hệ thống máy nội soi ống mềm
Một hệ thống máy nội soi ống mềm cơ bản bao gồm:
- Màn hình chuyên dụng 14- 17- 20 inch.
- Bộ phận vi xử lý
- Nguồn sáng.
- Máy nội soi, hiện nay thông dụng là máy nội soi ống mềm có video.
2.1.1. Hệ thống dẫn sáng
Trong máy nội soi quy ước, ánh sáng truyền theo hai chiều:
- Bó dẫn sáng từ nguồn sáng lạnh bên ngoài đến vật kính ở đầu ống soi, nằm suốt chiều dài của máy.
- Bó dẫn sáng về từ vật kính đến thị kính, chỉ có ở phần ống soi và thân máy. Các sợi thủy tinh trong bó dẫn sáng về được sắp xếp theo một thứ tự nghiêm ngặt nhằm tái hiện hình ảnh một cách trung thực. Bó dẫn sáng về rất quan trọng trong máy nội soi và sự gãy các sợi quang học sẽ làm xuất hiện hiện các chấm đen trong thị trường, sẽ tăng dần sau vài năm. Máy nội soi truyền hình không có bó dẫn sáng về mà thay bằng một camera nhỏ ở đầu ống soi. Vì vậy chất lượng hình ảnh ổn định và không bị suy giảm.
- Độ sáng của máy nội soi tùy thuộc vào nhiều yếu tố: Nguồn sáng loại xenon cường độ khoảng 300W sáng hơn bóng đèn halogen cường độ chỉ khoảng 150W, tuổi thọ bóng đèn, độ phân giải ánh sáng, tùy thuộc loai máy, độ phân giải càng cao thì chất lượng ánh sáng càng tốt.
2.1.2. Đường dẫn hơi và nước
- Trên tay cầm của máy có hai nút điều khiển màu xanh và màu đỏ.
- Nút màu xanh dùng để bơm hơi khi bịt lại và bơm nước để rửa mặt kính khi ấn nút vào.
- Nút màu đỏ để hút hơi và nước khi ấn nút vào.
Hơi được bơm ra từ nguồn sáng với nhiều mức độ khác nhau và rất cần thiết để quan sát tổn thương. Số lượng hơi nên vừa đủ để quan sát, tránh bơm quá căng gây khó chịu cho bệnh nhân. Dòng nước bơm ra rất nhỏ và chỉ dùng để rửa mặt kính. Khi muốn rửa tổn thương phải dùng bơm nước trực tiếp qua kênh sinh thiết.
2.1.3. Kênh sinh thiết
- Kênh sinh thiết có đường kính 2,8- 3,7mm. Cần chú ý các dụng cụ nội soi (kim tiêm, kềm sinh thiết, lọng cắt polyp, rọ gắp dị vật…) phải phù hợp với kênh sinh thiết.
- Kênh sinh thiết dùng để đưa kềm sinh thiết hoặc các dụng cụ khác đến tổn thương.
- Dùng để bơm nước rửa tổn thương.
2.1.4. Cấu trúc của ống soi
Thường gồm các phần sau:
- Một hay hai đầu tận cùng của bó dẫn sáng tới.
- Một vật kính dẫn sáng về.
- Một hay hai miệng mở của van sinh thiết. Một chỗ gờ để bơm hơi và nước.
Tùy theo hướng dẫn ánh sáng đèn, người ta chia làm 03 loại máy soi:
- Máy nhìn thẳng: thường dùng trong chẩn đoán các bệnh lý ống tiêu hóa, là loại máy thông dụng nhất.
- Máy nhìn bên: thường dùng trong chẩn đoán và điều trị các bệnh lý của đường mật, tụy.
- Máy nhìn chếch: có thể dùng cho cả hai loại chỉ định trên.
Phần đầu ống soi có thể di động linh hoạt bằng cách điều khiển 2 vòng xoay ở tay cầm của máy.
2.2. Đánh giá chức năng của một máy nội soi
2.2.1. Kích thước
Chiều dài và đường kính ống soi, chiều dài các ống soi dạ dày thông thường từ 925- 1025cm, các ống soi tá tràng thường dài hơn; ống soi đại tràng có chiều dài từ 1300- 1600cm. Đường kính ống soi ở người lớn thay đổi từ 7,9- 13,2mm, hiện nay ống soi dạ dày qua ngã mũi có đường kính nhỏ hơn chỉ còn 6mm.
2.2.2. Độ di động đầu ống soi
Di động trên dưới, phải trái.
Mỗi máy có độ di động khác nhau. Đối với máy nội soi tiêu hóa trên thì chuyển động lên trên thường chiếm ưu thế hơn
2.2.3. Tầm nhìn
Thông thường từ 3- 100mm (5- 60mm đối với máy soi ngang). Nếu gần hơn sẽ bị lóe sáng, nếu xa hơn sẽ tối không thể quan sát được.
2.2.4. Góc nhìn
Góc nhìn càng rộng hình ảnh càng lớn. Tuy nhiên, góc nhìn càng rộng sẽ làm biến dạng ở ngoại vi. Góc nhìn thông thường là 1200
2.2.5. Cách sắp xếp các kênh
Đặc biệt quan trọng là tương quan giữa vật kính và miệng kênh sinh thiết. Nó xác định vị trí đi ra của các dụng cụ trên màn hình. Đối với máy nhìn thẳng thường ở vị trí 7 giờ. Đối với máy nhìn ngang thường ở vị trí 2 giờ. Các tổn thương quan sát được sẽ dễ dàng tiếp cận hơn ở các vị trí này.
Nguồn:
- Nội soi tiêu hoá. Bệnh viện Bạch Mai.
Leave a Reply