Thiết kế vạt ở vùng thẩm mỹ – Phẫu thuật Implant.

Việc thiết kế vạt đúng ở vùng thẩm mỹ và nắm được nguyên tắc chung giúp hạn chế những sai sót và lỗi xảy ra trong quá trình điều trị, cải thiện thẩm mỹ của bệnh nhân và đạt được sự thành công như mong muốn. Cùng tìm hiểu những nguyên tắc chung liên quan đến việc thiết kế vạt ở vùng thẩm mỹ.

1. Giới thiệu chung

Phần này chủ yếu trình bày về các loại vạt cho những trường hợp mất răng xen kẽ bán phần, hầu hết các ví dụ được miêu tả là những implant đơn lẻ đặt ở vùng răng thẩm mỹ. Các nguyên tắc tương tự có thể áp dụng với những khoảng mất răng dài hơn.

2. Thiết kế vạt ở vùng thẩm mỹ – Nguyên tắc chung

Một vài sách phẫu thuật đã trình bày về kỹ thuật đặt implant mà không cần lật vạt, tuy nhiên nếu phẫu thuật viên không có kinh nghiệm có thể dễ dẫn đến gây thủng xương thành bên. Kỹ thuật này phù hợp với các trường hợp đặt implant đơn lẻ tức thì trực tiếp vào ổ răng sau nhổ. Thiết kế và lật vạt nên bộc lộ đủ sống hàm, gồm cả những phần xương lõm, giúp xác định rõ các cấu trúc giải phẫu quan trọng. Tương tự như với các phẫu thuật khác, vạt còn phải dễ được khâu đóng lại với lực căng tối thiểu, đường rạch vạt phải nằm trên vùng xương lành mạnh.

Trong hầu hết các trường hợp, ta luôn có thể dùng đường rạch giữa sống hàm. Đường rạch này có thể mở rộng đến khe nướu của răng bên cạnh, sau đó lật vạt niêm mạc màng xương rộng rãi về phía chóp để cho phép nhìn thấy rõ đường viền xương.

thiet-ke-vat-1
(A) Đường rạch đinh sống hàm được mở rộng tới khe nướu răng bên cạnh để bộc lộ sống hàm đầy đủ (B) Đường rạch giúp tiếp cận sống hàm rõ ràng.

Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, chúng tôi chủ trương dùng thêm đường rạch giảm căng để hỗ trợ bóc tách và bộc lộ vật.

thiet-ke-vat-2
Vạt thông thường với đường rạch dọc đinh sống hàm, đường rạch giảm căng chạy theo chiều dọc trên phần xương lành mạnh và hơi loe ở phía chóp. Đường rạch giảm căng mở rộng thêm phía khẩu cái cho phép lật vạt được đầy đủ.

Những đường rạch giảm căng nằm ngay cạnh răng đòi hỏi phải đặc biệt cẩn thận. Đường rạch có thể song song nhau và chạy theo chiều dọc trên phần xương lành mạnh để sau khi khâu đóng sự tái tạo mạch máu (tái tưới máu) không bị ảnh hưởng. Đường rạch có thể hơi loe về phía chóp nếu muốn nhìn thấy đường viền xương ở đó rõ ràng hơn. Việc tránh đặt đường rạch giảm căng nghiêng chéo trên bề mặt chân răng lồi lên cũng rất quan trọng, vì vết thương có thể không lành nếu phần xương bên dưới bị hở và điều này có thể dẫn đến tụt nướu

(A) Người ta khuyên nên tránh đặt đường rạch giảm căng chéo qua bề mặt chân răng vì có thể gây tụt nướu nếu phần xương bên dưới bị hở. Cũng không cần phải tạo đáy vạt rộng vì vạt niêm mạc được cung cấp máu và chất dinh dưỡng rất tốt. (B) Đường rạch giữa sống hàm giữ lại các gai nướu. Đường rạch giảm căng không cắt ngang bề mặt các răng bên cạnh.

Cần cẩn thận khi rạch giảm căng hoặc bóc tách vạt, tránh làm tổn thương các cấu trúc giải phẫu quan trọng như thần kinh cằm… Lật vật ở vùng kênh răng cửa hiếm khi gây các biến chứng liên quan như dị cảm, chảy máu. Các đường rạch giảm căng ngắn ở phía khẩu cái cũng rất hiệu quả, tuy nhiên không cần mở rộng quá xa để tránh cắt nhằm các mạch máu lớn.

Lật vạt phía khẩu cái, trên hình có thể thấy kênh răng cửa đang được kéo căng.

Ở những vùng có ít mô sừng hóa, nếu vạt được mở rộng về phía khẩu cái, đôi khi rất hữu hiệu nếu đặt đường rạch đỉnh sống hàm hơi thiên về phía khẩu cái hàm trên, là vùng được xem là có nhiều mô sừng hóa hơn.

Đường rạch ngang mào xương nằm phía trong của sống hàm. Bóc tách vạt có thể sẽ hơi khó, tuy nhiên đường khâu sẽ cách xa đầu implant hơn. Với phương pháp phẫu thuật vùi thì đây được xem là một lưu ý quan trọng.

Thiết lập vật kiểu này cũng là một chiến lược có ích trong những trường hợp cần phải ghép xương ở mặt ngoài, giúp đảm bảo đủ khâu kín vạt cách xa bề mặt implant, vật liệu ghép hay màng tái sinh xương có hướng dẫn. Tuy nhiên, trong trường hợp này cần cẩn thận đặt đường rạch giảm căng cách vùng ghép xương ít nhất một khoảng bề rộng của một răng ở mỗi bên.

Nếu đòi hỏi phải ghép mô, cần cẩn thận đặt đường rách cách xa để tránh bị lộ vật liệu ghép. Đường rạch do đó được đặt cách chỗ ghép một khoảng bề rộng một răng ở mỗi bên và nằm thiên về phía trong khẩu cái.

Điều còn tranh cãi chủ yếu khi thiết kế vạt cho răng đơn lẻ đó là vạt có nên bao gồm gai nướu, và có cần bóc tách gai nướu răng bên cạnh hay không. Việc tránh bóc tách gai nướu là để nhằm bảo tồn thẩm mỹ các cấu trúc gai nướu, vì nếu mất sẽ rất khó hoặc thậm chí không thể tạo lại được.

(A) Khoảng mất răng cửa giữa rộng cho phép lật vạt đủ chiều rộng ngay ở giữa mà vẫn bảo tồn được gai nướu (B) Ví dụ lâm sàng trường hợp bảo tồn gai nướu với khoảng mất răng cửa giữa rộng. Rạch vạt và bóc tách vẫn thấy rõ phần xương trong quá trình đặt implant (C) Cùng trường hợp trên, vạt được khâu bằng hai mũi chỉ, bao quanh trụ lành thương khá đẹp. Nếu chỗ khâu đóng có xu hướng bị hở thì sẽ đòi hỏi phải rạch giảm căng.

Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, khoảng mất răng hẹp theo chiều gần xa, ta không thể tránh được phải lật vạt ở cả phần gai nướu. Trường hợp ta chỉ giữ lại được một mảnh mô mềm mỏng ở mặt bên của răng bên cạnh, sự cấp máu của nó sẽ bị ảnh hưởng rất xấu, ta nên bóc tách toàn bộ phần mô này để không gây hại thêm nữa. Các tác giả hiện nay thường lật cả gai nướu như vạt ở hình trên mà không gây hại đến đường viền mô mềm về sau. Do đó, chúng tôi khuyến cáo như sau:

1. Với những khoảng mất răng nhỏ hơn hoặc bằng 7mm theo chiều gần xa, bóc tách luôn cả gai nướu.
2. Với những khoảng từ 8mm trở lên, một đường rạch đỉnh sống hàm 5-6mm và đường rạch giảm căng sẽ cho phép giữ lại đủ chiều rộng cho gai nướu, do đó khuyến cáo bảo tồn gai nướu.
3. Nếu có cân nhắc vì cần phải bộc lộ các cấu trúc giải phẫu như thần kinh răng cửa hoặc có thể phải chỉ định ghép mô thì một lần nữa, chúng tôi cũng khuyến cáo dùng vạt rộng hơn bóc tách luôn cả gai nướu.

(A) Khoảng mất răng cửa hẹp (thường với răng cửa bên) không đủ chiều rộng cho vạt và không thể tránh ảnh hưởng gai nướu, đây là vấn đề thường nảy sinh khi thiết kế vạt. (B) Toàn bộ mô mềm được lật với đường rạch giảm căng ở góc xa của răng cửa giữa và đường rạch khe nướu ở răng nanh.

Các đường rạch được miêu tả ở trên là những đường rạch đơn giản ngang biểu mô, mô liên kết, màng xương và xuống tới xương. Ở những vùng mô mềm qua dày ta có thể dùng những đường rạch tinh xảo hơn để tạo mép vạt gối đầu thay vì chỉ là một đầu ghép chập đơn giản (hình 8.9). Điều này đòi hỏi đường rạch phải xuyên quan biểu mô, rồi mở rộng theo chiều ngang ở giữa mô liên kết, sau đó tiếp tục bằng một đường rạch dọc qua màng xương. Đầu ghép nối bán phần như vậy cho phép che phủ vạt chắc chắn hơn ở những vùng dự kiến sẽ ghép xương.

Ở những vùng mô mềm dày, có thể áp dụng đường rạch chia nửa chiều dày để tạo nên một “đầu ghép nối bán phần”. Thiết kế này giúp giảm tối đa nguy cơ bị bung đường rạch tuy nhiên chỉ có thể thực hiện ở những vùng mô dày, nhưng đây lại là những vùng ít khi bị bung vạt.

Nguồn: Implant trong thực hành Nha khoa – Richard D.Palmer/Nhóm dịch Saigon Young Dentists Việt Nam


Posted

in

,

by

Tags:

Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *