Bài viết này cung cấp kiến thức cho Nha sĩ vềvấn đề góc của Implant theo chiều ngoài trong, đồng thời minh hoạ rõ ràng vị trí và hướng của Implant theo từng trường hợp lâm sàng cụ thể. Điều quan trọng là xem xét vị trí ngoài trong có đảm bảo yêu cầu về góc của implant hay không và điều chỉnh vị trí này nếu cần thiết. Cùng tìm hiểu.
1. Góc của Implant theo chiều ngoài-trong
Hình dưới đây cho thấy khả năng thay đồi góc của implant. Implant có thể được đặt trùng với trục răng, cho thấy Implant/mão răng tạo góc trung bình 110° với mặt phẳng Frankfurt. Trục của implant và abutment xuyên qua cạnh cắn của mão răng. Đây là vị trí thông thường và bắt buộc đối với mão được gắn bằng xê măng. Trong nhiều trường hợp profile của xương bắt buộc implant phải đặt nghiêng nhiều ra phía ngoài.
Trong hình trên, implant tạo góc hơn 10° về phía mặt ngoài và mão vẫn duy trì vị trí/góc trước đó. Bây giờ trục xuyên qua mặt ngoài tới cạnh của răng cửa và tạo ra một góc nhỏ không đáng kể giữa mão và implant, điều này giống như góc giữa chân và thân răng thường thấy ở các răng cửa tự nhiên. Góc như thế này đem lại thẩm mỹ, tạo ra hình dạng tự nhiên và lồi lên ở viền cổ răng mặt ngoài tương tự răng bên cạnh, đó là mặt thoát (emergence profile) tối ưu. Tăng góc nghiêng ngoài hơn 10° vẫn đem lại giải pháp phục hồi thẩm mỹ trừ khi tăng góc tới mức không thể tạo ra một phục hình thẩm mỹ.
Ngược lại, tiêu xương về phía khẩu cái có thể làm góc implant nghiêng về phía khẩu cái hơn. Hình 9.8 cho thấy góc của implant tăng dần 10° về phía khẩu cái. Tăng 10° về phía khẩu cái ít gây ảnh hưởng hơn mặc dù sẽ có khuynh hướng kém thuận lợi cho đường viền cổ răng/ mặt thoát. Khi tăng góc nghiêng về phía khẩu cái, cần phải thay thế việc mất đường cổ răng mặt ngoài bằng phục hình phủ nước (ridge lapping). Điều này dẫn tới phục hình sẽ không có độ lồi (emerge) từ mô mềm nhưng một ridge lap sẽ “ngồi” lên mô tương tự như nhịp cầu trong phục hình cố định truyền thống. Thuận lợi duy nhất của implant góc hướng về khẩu cái là khả năng bắt vít xuyên qua cingulum của phục hình cho phép giữ phục hình bằng vít hơn là cement. Phục hình một răng lưu giữa bằng vít ít quan trọng hơn trước đây vì sự lỏng vít vặn abutment có tỷ lệ rất thấp (thiết kế tốt hơn và độ chặt phù hợp do sử dụng torque để kiểm soát).
Hình trên cho thấy góc implant nằm giữa khoảng 20° chìa ra và 10° cụp vào đối với trục bình thường là chấp nhận được. Góc implant nằm ngoài giới hạn này sẽ ảnh hưởng thẩm mỹ và thử thách kỹ năng của Bác sĩ phục hình đến giới hạn nơi implant không thể phục hình được hoặc thẩm mỹ không chấp nhận được. Những điểm lưu ý sau sẽ giúp tránh tình trạng này:
1. Đánh giá và lên kế hoạch trước phẫu thuật tốt
2. Những vùng tiên lượng xảy ra các khó khăn này nên được ghép xương trước
3. Sử dụng máng phẫu thuật và chốt định hướng tại mỗi giai đoạn sửa soạn để kiểm tra góc và vị trí của đầu implant
Những guideline trên chỉ có tính tương đối và mỗi trường hợp nên được đánh giá cụ thể, đặc biệt quan tâm đến bệnh nhân có góc thân răng/chân răng dễ nhận thấy và/hoặc khớp cắn hạng 2 hoặc hạng 3 trong tương quan răng cửa. Vấn đề khó khăn về góc gặp phải khi phẫu thuật có thể giảm đi bằng cách tạo lối vào ban đầu hướng về phía khẩu cái. Điều này cho phép thay đổi góc implant và giữ cho implant nằm trong đường viền xương. Do đó điều quan trọng là xem xét vị trí ngoài trong có đảm bảo yêu cầu về góc của implant hay không và điều chỉnh vị trí này nếu cần thiết.
2. Vị trí của đầu trụ theo chiều đứng
Vị trí đầu implant quan trọng trong việc cung cấp khoảng trống cho abutment và đường hoàn tất phục hình, được đặt ở vị trí thẩm mỹ tương ứng với độ dày của mô mềm. Hình trên cho thấy hình ảnh phía trước với vị trí lý tưởng của implant ở giữa của trục răng với đầu của implant nằm cách đường viền nướu-cổ răng 3mm về phía chóp. Nên có một ít thay đổi về góc của implant trong mặt phẳng này và hầu hết sự khác biệt liên quan tới vị trí của đầu implant theo chiều đứng. Khoảng cách 3mm giữa đầu implant và đường nối men- xê măng của răng kế bên cho phép một sự chuyển tiếp mượt mà của profile phục hình từ một implant có đường kính trung bình (4mm) tới kích cỡ của răng tự nhiên như răng cửa giữa, răng cửa bên và răng nanh. Một đầu implant quá gần thân răng đòi hỏi sự bẻ góc lớn một cách đột ngột và có khả năng làm lộ abutment hoặc đầu implant gây mất thẩm mỹ. Đầu implant đặt sâu về phía chóp cho phép sự chuyển tiếp mượt mà của profile, nhưng nếu quá mức sẽ làm phục hình rất dài, dễ xảy ra biến chứng về mặt cơ học. Đầu implant đặt quá sâu sẽ gây khó khăn cho BS phục hình khi xử lý và thất bại trong việc duy trì chiều cao mô mềm dẫn tới mất thẩm mỹ.
Nguồn: Implant trong thực hành Nha khoa – Richard D.Palmer/Nhóm dịch Saigon Young Dentists Việt Nam
Leave a Reply