Đợt cấp COPD là tình trạng thay đổi cấp tính các biểu hiện lâm sàng: khó thở tăng, ho tăng, khạc đờm tăng và hoặc thay đổi màu sắc của đờm. Những biến đổi này đòi hỏi phải có thay đổi trong điều trị. Theo thống kê trung bình mỗi năm một bệnh nhân COPD có từ 1,5 – 2,5 đợt cấp/năm. Bài viết dưới đây sẽ trình bày các tiêu chuẩn chẩn đoán đợt cấp COPD theo hướng dẫn của Bộ Y tế.
1. Nguyên nhân
– Nguyên nhân do nhiễm trùng: đây là nguyên nhân thường gặp nhất, chiếm tới 70-80% nguyên nhân gây đợt cấp.
+ Vi khuẩn: Haemophilus influenzae, Streptococcus pneumoniae, Moraxella catarrhalis, Pseudomonas aeruginosa…
+ Virus: cúm, á cúm, rhinovirus, virus hợp bào hô hấp.
– Không do nhiễm trùng:
+ Ô nhiễm không khí (khói thuốc, tiếp xúc khói bụi nghề nghiệp, ozone…).
+ Giảm nhiệt độ môi trường (trong và ngoài nhà) đột ngột; viêm có tăng bạch cầu ái toan; dùng thuốc điều trị không đúng, bỏ điều trị đột ngột.
+ Dùng thuốc an thần, thuốc ngủ.
– Một số trường hợp có đợt cấp không rõ căn nguyên.
2. Chẩn đoán
2.1. Phát hiện các dấu hiệu của đợt cấp COPD tại y tế cơ sở (xã/phường, huyện)
Bệnh nhân đã được chẩn đoán COPD xuất hiện các triệu chứng nặng hơn thường ngày, hoặc các trường hợp tuổi trung niên chưa có chẩn đoán, nhưng xuất hiện các triệu chứng:
– Triệu chứng hô hấp:
+ Ho tăng.
+ Khó thở tăng.
+ Khạc đờm tăng và/hoặc thay đổi màu sắc của đờm: đờm chuyển thành đờm mủ.
+ Nghe phổi thấy rì rào phế nang giảm, có thể thấy ran rít, ngáy, ran ẩm, ran nổ.
– Các biểu hiện khác có thể có hoặc không có tùy thuộc vào mức độ nặng của bệnh:
+ Tim mạch: nặng ngực, nhịp nhanh, loạn nhịp. Các dấu hiệu của tâm phế mạn (phù, tĩnh mạch cổ nổi, gan to…).
+ Triệu chứng toàn thân có thể có: sốt, rối loạn tri giác, trầm cảm, mất ngủ, giảm khả năng gắng sức…
+ Trường hợp nặng có dấu hiệu suy hô hấp cấp: thở nhanh nông hoặc thở chậm, tím môi đầu chi, nói ngắt quãng, co kéo cơ hô hấp phụ, vã mồ hôi…
2.2. Các thăm dò chẩn đoán cho đợt cấp COPD tại bệnh viện
Với các dấu hiệu lâm sàng như đã mô tả ở trên, bệnh nhân sẽ được làm một số xét nghiệm cần thiết để hỗ trợ cho chẩn đoán và điều trị:
Bảng 1. Giá trị chẩn đoán của các thăm dò trong đánh giá đợt cấp COPD
Xét nghiệm thăm dò |
Có thể phát hiện |
Đo SpO2 | Giảm oxy máu |
Khí máu động mạch | Tăng CO2 máu, giảm oxy máu
Toan máu, kiềm máu |
Chụp X-quang phổi | Giúp phân biệt viêm phổi, phát hiện biến chứng |
Công thức máu | Thiếu máu, đa hồng cầu
Tăng bạch cầu |
Xét nghiệm đờm | Nhuộm Gram
Cấy đờm |
Điện tim | Rối loạn nhịp tim: nhịp nhanh, ngoại tâm thu, rung nhĩ…
Thiếu máu cơ tim cục bộ Dấu hiệu suy tim phải, suy tim trái |
Siêu âm tim | Giãn thất phải
Tăng áp lực động mạch phổi |
Sinh hóa máu | Rối loạn điện giải
Rối loạn chức năng gan, thận; tăng hoặc hạ đường huyết, các rối loạn chuyển hóa Tăng BNP, Pro-BNP: suy tim Tăng D Dimer: Huyết khối – tắc động mạch phổi Tăng các dấu ấn viêm: protein phản ứng C (CRP) Tăng Procalcitonin |
Chức năng thông khí | Rối loạn thông khí tắc nghẽn không hồi phục hoàn toàn: đo chức năng thông khí sau khi đợt cấp ổn định |
2.3. Chẩn đoán xác định đợt cấp COPD
Bệnh nhân đã được chẩn đoán COPD và có triệu chứng đợt cấp theo tiêu chuẩn Anthonisen (1987):
– Khó thở tăng.
– Khạc đờm tăng.
– Thay đổi màu sắc của đờm, đờm chuyển thành đờm mủ.
2.4. Đánh giá mức độ nặng và các yếu tố nguy cơ của bệnh
Đánh giá mức độ nặng đợt cấp COPD theo triệu chứng
Bảng 2. Đánh giá mức độ nặng của đợt cấp COPD
Các chỉ số |
Nặng |
Nguy kịch |
Lời nói | Từng từ | Không nói được |
Tri giác | Ngủ gà, lẫn lộn | Hôn mê |
Co kéo cơ hô hấp | Rất nhiều | Thở nghịch thường |
Tần số thở/phút | 25 – 35 | Thở chậm, ngừng thở |
Khó thở | Liên tục | Liên tục |
Tính chất đờm:
– Thay đổi màu sắc – Tăng số lượng – Kèm theo sốt – Kèm theo tím và phù mới xuất hiện |
Có 3 trong 4 đặc điểm | Có thể cả 4, nhưng thường bệnh nhân không ho khạc được nữa |
Mạch/phút | > 120 | Chậm, loạn nhịp |
SpO2 % | 87 – 85 | < 85 |
PaO2 mmHg | 40 – 50 | < 40 |
PaCO2 mmHg | 55 – 65 | > 65 |
pH máu | 7.25 – 7.30 | < 7.25 |
Chú ý: có từ ≥ 2 tiêu chuẩn của một mức độ thì được đánh giá ở mức độ đó.
Phân loại mức độ nặng theo tiêu chuẩn Anthonisen:
– Mức độ nặng: khó thở tăng, số lượng đờm tăng và đờm chuyển thành đờm mủ.
– Mức độ trung bình: có 2 trong số 3 triệu chứng của mức độ nặng.
– Mức độ nhẹ: có 1 trong số triệu chứng của mức độ nặng và có các triệu chứng khác: ho, tiếng rít, sốt không vì một nguyên nhân nào khác, có nhiễm khuẩn đường hô hấp trên 5 ngày trước, nhịp thở, nhịp tim tăng > 20% so với ban đầu.
Đánh giá tình trạng suy hô hấp
– Không suy hô hấp: nhịp thở 20 – 30 lần/phút; không co kéo cơ hô hấp phụ; không rối loạn ý thức; tình trạng oxy hoá máu được cải thiện khi được thở oxy với FiO2: 28 – 35%; không tăng PaCO2.
– Suy hô hấp cấp – Không có dấu hiệu đe doạ tính mạng: nhịp thở > 30 lần/phút; co kéo cơ hô hấp; không rối loạn ý thức; tình trạng giảm oxy máu cải thiện khi thở oxy với FiO2: 35 – 40%; PaCO2: 50 – 60mmHg;
– Suy hô hấp cấp – Có dấu hiệu đe doạ tính mạng: nhịp thở > 30 lần/phút; co kéo cơ hô hấp phụ; rối loạn ý thức cấp tính; tình trạng giảm oxy máu cải thiện khi được thở oxy với FiO2 > 40%; PaCO2 > 60mmHg, hoặc có toan hoá máu (pH < 7,25).
* Các yếu tố làm tăng mức độ nặng của đợt cấp COPD:
– Rối loạn ý thức.
– Đợt cấp đã thất bại với điều trị ban đầu.
– Có ≥ 3 đợt cấp COPD trong năm trước.
– Đã được chẩn đoán COPD mức độ nặng hoặc rất nặng.
– Đã từng phải đặt ống nội khí quản vì đợt cấp.
– Đã có chỉ định thở oxy dài hạn, thở máy không xâm nhập tại nhà.
– Bệnh mạn tính kèm theo (bệnh tim thiếu máu cục bộ, suy tim sung huyết, đái tháo đường, suy thận, suy gan).
– Chỉ số khối cơ thể (BMI) ≤ 20 kg/m2.
– Không có trợ giúp của gia đình và xã hội.
* Các yếu tố nguy cơ nhiễm Pseudomonas aeruginosa:
– Có bằng chứng COPD nặng, FEV1 ban đầu < 50%.
– Đã phân lập được Pseudomonas aeruginosa trong đờm từ lần khám, điều trị trước.
– Có giãn phế quản kèm theo.
– Dùng kháng sinh thường xuyên.
– Nhập viện thường xuyên.
– Có dùng thường xuyên corticoid toàn thân.
Tóm lại, nắm được tiêu chuẩn chẩn đoán đợt cấp của bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) là rất quan trọng vì đây là một trong những bệnh lý phổi phổ biến nhất và có thể gây ra các biến chứng nguy hiểm đến tính mạng.
Nguồn tham khảo: Bộ Y tế
Leave a Reply