Phẫu thuật Implant răng trước – Khám Xquang, tạo mẫu chẩn đoán.

Việc sử dụng Xquang trong phẫu thuật Implant răng trước rất cần thiết đối với các nhà lâm sàng, giúp xem xét tổng quan trong miệng để đánh giá đầy đủ kết quả điều trị. Cùng nhìn nhận sâu hơn vấn đề này trong bài viết dưới đây.

1. Khám Xquang đối với trường hợp phẫu thuật Implant răng trước

Khi thay thế một răng mà xương tiêu ít chỉ cần chụp phim trong miệng là được. Tuy nhiên, phải nhớ rằng chúng ta cần xem xét tổng quan trong miệng để việc điều trị được đánh giá đầy đủ. Chất lượng hình ảnh cực kỳ quan trọng và nhà lâm sàng phải chắc chắn rằng tất cả các cấu trúc giải phẫu liên quan phải hiện diện trong hình ảnh và xem xét bất kỳ sự biến dạng hình ảnh nào. Có thể khó khăn trong việc đo lường chính xác khoảng gần xa trên phim tại những vùng cong như răng cửa bên/ răng nanh hàm trên và răng nanh hàm dưới. Đây là vì sự uốn cong của cung hàm và khó khăn khi đặt phim song song với khoảng mất răng. Thực hiện đo lại trên lâm sàng để có được đánh giá chính xác.

phau-thuat-implant-1
(A) Hình ảnh trong miệng của khoảng trống răng cửa bên hàm trên với một phác họa implant (overlay) cho thấy một implant đường kính 3.5 mm, dài 11 mm, cho phép đánh giá khoảng cách từ bề mặt implant tới các chân răng bên cạnh. (B) Cùng một hình ảnh với phác thảo implant 4mm cho thấy không có hơn 1mm xương giữa implant và chân răng. Điều này đòi hỏi phải phẫu thuật implant cực kỳ chính xác để không làm hại răng bên cạnh.

Mặc dù nhiều nhà lâm sàng có thói quen chụp CT khi lập kế hoạch phẫu thuật implant một răng nhưng chúng ta xem nó như là yêu cầu vượt quá sự cần thiết. Tuy nhiên, chụp CT có thể là sự giúp đỡ rất quan trọng ở những vùng như răng cửa giữa hàm trên nơi có kênh răng cửa có thể làm ảnh hưởng đến việc đặt implant. Nhiều máy chụp toàn cảnh hiện đại (dental panoramic tomogram- DPT) có thể chụp cắt lớp để lập kế hoạch phẫu thuật implant.

(A) Nhìn từ mặt ngoài vùng mất răng cửa giữa trên thấy chiều cao và hình dạng sống hàm tốt. (B) Từ mặt nhai thấy gai nướu lồi lên và khoảng cách tương đối hẹp. (C) Hình ảnh X quang thấy kênh răng cửa nằm trong vùng mất răng và hơi hội tụ vào chân răng kế bên. Nếu phẫu thuật implant ở đây cần chỉnh hình và ghép xương kênh răng cửa.
Loạt hình ảnh cắt lớp của kênh răng cửa. Hình trên bên trái chỉ ra kênh trong mặt phẳng cắt ngang. Hình dưới trái chỉ ra kênh trong mặt phẳng đứng ngang và hình dưới phải trong mặt phẳng đứng dọc. Hình trên phải là ảnh dựng 3D cho thấy máng chụp phim (radiographic stent). Kênh răng cửa chiếm một phần lớn của thể tích xương giữa các chân răng.

Những thông tin được cung cấp bởi kỹ thuật chụp 3D hữu ích cho việc lập kế hoạch phục hình sau cùng. Một hàm giả bán phần phù hợp hoặc một cái máng cá nhân được làm giống như răng của bệnh nhân sau này và nhồi vật liệu cản quang vào trong đó. Nếu mão gắn bằng vít, vật liệu cản quang có thể đặt ở vùng cingulum để ta thấy được lỗ vào của vít. Mặt ngoài của máng có thể quét một loại vật liệu cản quang như TempBond để thấy được tổng thể của mặt ngoài và vùng cổ răng tương quan với xương hàm bên dưới. Có những loại máng có vật liệu cản quang đơn giản hơn, ví dụ như máng có những viên bị đường kính khác nhau trong nền hàm giúp xác định vị trí và sự biến dạng chiều gần xa.

phau-thuat-implant-5
(A) Mảng chụp phim nhìn từ ngoài. Răng cửa giữa trên bên phải có lớp cản quang ở mặt ngoài và răng cửa bên hàm trên trái là một răng cản quang. (B) Nhìn từ mặt nhai thấy răng cửa giữa trái có nhét gutta percha ở cingulum có nghĩa là đường vào của vít (screw). (C) Hình ảnh cone beam của cùng một case với mảng chụp phim cho thấy mối quan hệ giữa các chất cản quang khác nhau đối với hình dạng sống hàm bên dưới.

Scanora (Soredex, Phần Lan) là một ví dụ về máy chụp X quang có thể cho ra những hình ảnh cắt lớp chất lượng cao, mặc dù hiện nay cone-beam CT đã được sử dụng rộng rãi. Trái ngược với CT, hình ảnh của CT scan được tạo ra bởi phần mềm còn hình ảnh của Scanora được tạo trực tiếp trên phim. Nó sử dụng phức hợp chùm tia hình xoắn ốc rộng và có thể scan ở nhiều mặt. Scan được máy tính điều khiển tự động. Họ dựa vào vị trí của bệnh nhân và kinh nghiệm sử dụng máy. Đầu bệnh nhân được đặt thẳng trong thiết bị và vị trí này được ghi lại với chất cản quang trên da và chùm sáng. Một hình ảnh DPT truyền thống được tạo ra ở vùng quyết định chụp cắt lớp. Bệnh nhân được đặt lại chính xác vị trí cũ và chọn chương trình chụp cho vùng hàm cần làm.

(A) Phim toàn cảnh của máy Scanora với độ phóng đại 1.7 lần. Bệnh nhân trẻ thiếu nhiều răng bẩm sinh, bao gồm răng cửa bên hàm trên và răng nanh. (B) Hình ảnh lát cắt ở sống hàm phía trước, nhắm vào mặt ngoài và sống hàm mỏng hơn phác họa implant 4mm. (C) Lát cắt mặt nghiêng của răng (T*) trên mảng chụp phim có phủ ngoài một lớp cản quang. Lát cắt này được đánh giá bằng cách đặt một phác họa implant trong suốt vào trong thể tích xương hiện có. Đường vạch đỏ chỉ ra góc của implant xuyên ra mặt ngoài đúng từ chóp tới cạnh cắn. Một phục hình gắn xe măng thích hợp cho case này.

Sự phóng đại của Scanora khoảng 1,3 hoặc 1,7 lần đối với DPT thông thường nhưng gấp 1,7 lần cho toàn bộ hình cắt lớp. Độ dày lát cắt thường khoảng 2- 4mm. Cũng như các chương trình khác, hình chụp bao gồm cấu trúc lân cận không nằm tiêu cự và sẽ bị nhòe.

Để lập kế hoạch khi hình ảnh có độ phóng đại khác nhau, ta dùng hình ảnh giống phẫu thuật implant trong suốt có đường kính và chiều dài tương ứng với độ phóng đại để đặt ngay trên phim. Điều này cho ta một phương pháp đơn giản để đánh giá vùng đặt implant và cách đặt implant ở những góc khác nhau.

2. Mẫu chẩn đoán

Bệnh nhân đã chấp nhận thẩm mỹ của phục hình tạm thì không cần làm mẫu sáp chẩn đoán. Có những thuận lợi đáng kể khi sử dụng phục hình trước đây hoặc phục hình tạm mới làm để cho bệnh nhân thấy được kết quả phục hình sau cùng sẽ ra sao. Việc này là sự đồng ý của bác sĩ và bệnh nhân và nên được ghi lại. Mẫu sáp chẩn đoán làm bệnh nhân khó đánh giá còn hình ảnh bằng máy tính thì không thực hoặc không đạt được. Nhà lâm sàng thường dùng hàm tháo lắp nhựa cho mục đích này. Mẫu răng tạm nên tạo được mặt thoát (emergence profile) của thân răng và đánh giá mức độ thoát ra từ mô mềm ngay vùng cổ răng hoặc viền nướu.

Nguồn: Implant trong thực hành Nha khoa – Richard D.Palmer/Nhóm dịch Saigon Young Dentists Việt Nam


Posted

in

,

by

Tags:

Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *