Bài viết này nói về các vấn đề liên quan đến tương quan đối đầu ở nhóm răng sau, gồm những điểm cần lưu ý, phương pháp phục hồi tương quan này và các giải pháp đối phó với tương quan đối đầu một bên. Cùng tìm hiểu kỹ hơn trong bài viết dưới đây.
1. Những điểm cần lưu ý về tương quan đối đầu phía sau
1. Tất cả các răng ổn định hay không ổn định? (kiểm tra mòn răng hoặc lung lay răng quá mức)
2. Hướng dẫn ra trước có nhả khớp răng sau được không? Nếu có, khớp cắn đối đầu không là vấn đề.
3. Nếu hướng dẫn ra trước không nhả khớp răng sau trong các chuyển động hàm sang bên, chọn phương pháp điều trị tốt nhất trong các phương pháp sau để chỉnh sửa tương quan răng sau
• Tạo hình lại.
• Nắn chỉnh
• Phục hồi (với múi trung tâm)
• Phẫu thuật
Đánh giá mỗi phương pháp và lựa chọn phương thức lâm sàng thực tế nhất để đảm bảo tất cả các yêu cầu của sự ổn định. Mục tiêu là nhả khớp răng sau cân bằng hoặc bởi hướng dẫn ra trước hoặc bằng răng sau bên làm việc.
4. Hướng dẫn ra trước có thể bởi dốc răng cửa nếu nó không dốc hơn hướng sang bên ban đầu trong chuyển động hàm quyết định bởi răng sau.
2. Phục hồi các răng sau đối đầu
Trong tương quan múi – múi ở các răng sau, cản trở ở tương quan tâm nên được giảm bớt bằng cách làm bằng đỉnh múi hàm trên và nếu cần thiết, mài chỉnh chọn lọc đỉnh múi răng hàm dưới. Mục tiêu là cung cấp càng nhiều càng tốt sự ổn định ở tương quan tâm và càng nhiều sự nhẹ nhàng khi chuyển động hàm
.
Khi đỉnh múi răng hàm dưới ở vị trí đối diện với bề mặt răng hàm trên mà phẳng, chuyển động xuống dưới ra trước của quỹ đạo lồi cầu là đủ để nhả khớp bên làm việc, thậm chí khi có hướng dẫn trước ngang và bên làm việc phẳng, nếu mặt phẳng khớp cắn là đúng. Tương quan răng đối đầu thường cân bằng khá tốt với lưỡi và má và hướng của lực là thuận lợi cho cả răng hàm trên và hàm dưới, nên tương quan đỉnh múi – bề mặt phẳng là khá ổn định.
Nếu các răng sau cần phải được phục hồi, quyết định tương tự liên quan đến đường viền cần được thực hiện. Chúng ta có vài lựa chọn cho phục hồi đường viền các răng sau có tương quan đối đầu. Tùy cấu trúc khớp cắn được lựa chọn nên phụ thuộc mức độ các câu trả lời các câu hỏi sau: Hướng dẫn trước có thể có chức năng nhả khớp khi đưa hàm ra trước và đưa hàm sang bên làm việc hay không? Trong sự hiện diện của một hướng dẫn chức năng ra trước, hình thái học khớp cắn phẳng có thể được sử dụng. Những điểm chặn trung tâm ổn định có thể tạo ra bằng vài cách. Mỗi cách nên được đánh giá từ vài điểm chuẩn.
Đỉnh múi răng dưới tới bề mặt phẳng răng trên
Tương quan này có thể tạo ra hầu như cấu trúc khớp cắn răng sau hàm dưới bình thường, với chỉnh sửa nhẹ để làm bằng và làm rộng các đỉnh múi răng hàm trên đóng vai trò là điểm chặn cho các đỉnh múi tròn của răng hàm dưới. Độ cắn chìa đủ có thể giữ má tránh khỏi vị trí tiếp xúc. Cấu trúc khớp cắn loại này là thích hợp miễn là các răng được định vị hài hòa với má và lưỡi và miễn là cho phép nhả khớp răng sau trong tất cả các vị trí lệch tâm.
Hội tụ các múi răng hàm dưới
Thực tế bằng sự hội tụ các múi ngoài và múi trong vào trong múi trung tâm duy nhất để đặt chúng vào trong hố trung tâm của răng hàm trên. Hướng áp lực là lý tưởng cho cả răng hàm trên và hàm dưới và chức năng là rất tốt. Với múi trung tâm hàm dưới, độ nghiêng bên làm việc hàm trên có thể được sử dụng để nhả khớp bên cân bằng ở phía đối diện, và nó có thể thực hiện trong giới hạn của khoảng trung hòa bình thường.
Mặc dù nó là một sự đổi hướng từ giải phẫu khớp cắn bình thường, những múi trung tâm của răng hàm dưới là một sáng kiến để giải quyết những vấn đề đối đầu một bên. Không có khuyết điểm thực sự khi tiến hành, thậm chí sự khác biệt thẩm mỹ từ các đường nét bình thường là không đáng chú ý. Nó cho phép những đường nét ở ngang lợi phía má và phía lưỡi bình thường ở cả răng hàm trên và hàm dưới và hướng áp lực có thể là lý tưởng mà sự ổn định thường không là vấn đề.
Thay đổi độ cong của múi và di chuyển hố rãnh sẽ hiệu quả nếu tương quan cung răng hơi lệch nhẹ, nhưng một khớp cắn đối đầu thực sự yêu cầu độ cong múi nhiều để đảm bảo điều kiện lâm sàng. Hướng lực sau điều chỉnh là không hợp lí.
Đường viền răng sau cong
Thực hiện các đường nét “cong” ở răng sau để di chuyển múi răng hàm dưới vào trong và múi răng hàm trên ra ngoài có lẽ là quá mức. Nó thường dẫn tới lệch hướng áp lực theo trục dọc của răng. Nó được thực hiện khi cố gắng định vị đỉnh múi vào hố, nhưng nếu sự ổn định có thể đạt được theo cách khác, không cần thiết đặt đỉnh múi vào hố nếu độ nghiêng của hố là không cần thiết trong tiếp xúc chuyển động hàm sang bên. Trong tương quan cung răng bình thường, tiếp xúc múi – hố là một cách thực tế, tự nhiên đạt được sự ổn định, nhưng hướng của lực lệch khỏi trục dọc răng chỉ để tái tạo lại giải phẫu như sách giáo khoa là không thực tế. Vì lí do này, răng phục hình với đỉnh múi cong đòi hỏi điều chỉnh khớp cắn sau lắp phục hình là không thường xuyên xảy ra. Tất cả các đường viền khớp cắn nên được đánh giá theo cách này và điều này đặc biệt đúng khi tương quan xương hàm không lý tưởng.
Trong tương quan đối đầu răng sau, nếu có thể làm cong múi răng hàm dưới phía trong để cải thiện vị trí hố, hướng lực thường duy trì theo trục dọc của răng hàm trên và hàm dưới. Nhưng làm cong múi hàm trên phía má thường tạo ra áp lực. Làm cong múi là không thực tế nếu nó tạo ra những đường nét về phía má hoặc phía lưỡi quá mức so với đường viền lợi.
Sự làm cong các đường nét phía má hoặc phía lưỡi có thể cũng tạo ra một vấn đề tiềm tàng cho sự ổn định mà thường bị bỏ qua trong kế hoạch điều trị. Đặc biệt ở những bệnh nhân có lưỡi hoặc áp lực má mạnh, thay đổi đường viền nhiều dẫn tới không phù hợp với giới hạn của khoảng trung hòa. Kết quả là một sự di chuyển theo chiều ngang liên tục của các răng được phục hồi cho tới khi vị trí của chúng ở giữa những lực cơ là trung hòa. Vì lý do này, hay gặp các răng sau đã được phục hồi với các đường nét được làm cong cần phải điều chỉnh khớp cắn nhiều sau khi chèn thêm các phục hồi trên răng. Hiện tượng này đáng chú ý nhất ở vùng răng hàm lớn, nơi mà một lưỡi và má tạo nên một loại áp lực mạnh chống lại bất kỳ mặt răng nào mà được mở rộng ra ngoài khoảng trung hòa của nó.
Sự làm cong múi và tái định vị hố là kỹ thuật phục hồi tốt nếu nó có thể được thực hiện trong giới hạn của hướng áp lực đúng, đủ ổn định và tạo đường nét duy trì mô.
3. Tương quan đối đầu một bên
Nếu một bên của cung răng là đối đầu mà bên kia là tương quan múi hố, có khả năng nhất định gây hại cho bên khớp cắn đúng.
Bên khớp cắn đúng có khả năng nhả khớp cân bằng nghiêng ở bên đối đầu, nhưng bên đối đầu không có tiếp xúc thành hố để nhả khớp bên các răng lồng múi. Nếu các răng trước cũng là tương quan đối đầu, chúng không thể có khả năng tạo ra chuyển động mà cần để nhả khớp góc hướng dẫn bên lồng múi. Có ít nhất ba giải pháp trên lâm sàng đối với vấn đề đối đầu một bên:
Chỉnh nha
Nắn chỉnh lại bên đối đầu vào lồng múi đúng sẽ cho phép nó đảm nhận công việc nhả khớp bên đối diện không làm việc.
Làm bằng các góc hướng dẫn bên lồng múi
Nếu các độ nghiêng bên cân bằng được làm đủ bằng, chúng sẽ nhả khớp bởi một hướng ngang bên làm việc. Hướng xuống dưới ra trước của quỹ đạo lồi cầu sẽ giúp ích trong nỗ lực nhả khớp.
Tương quan đối đầu của răng trước
Một tương quan đối đầu của răng trước có thể cung cấp khá tốt một hướng dẫn trước bên vì răng cửa dưới duy trì tiếp xúc khi chúng vượt qua rìa cắn răng cửa trên. Khoảng cách trượt trong tiếp xúc răng trước là đủ để nhả khớp với góc hướng dẫn phẳng. Khi đối đầu răng nanh nhả phía bên, răng cửa vẫn tiếp xúc, điều này đủ để bảo vệ răng sau từ những cản trở bên cân bằng nếu các góc hướng dẫn bên cân bằng đủ phẳng và mặt phẳng khớp cắn đúng.
Góc hướng dẫn bên làm vệc cũng nên được làm bằng, để tạo đối xứng chức năng, miễn là góc hướng dẫn bên cân bằng được nhả khớp. Tuy nhiên, không phải bắt buộc rằng độ nghiêng bên làm việc tương tự ở cả hai bên.
Theo: Sách Functional Occlusion From TMJ to Smile Design – Dawson
Leave a Reply