Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) là một bệnh lý phổi mãn tính, nhưng nhiều bệnh hô hấp khác cũng có thể đồng mắc với COPD. Hiểu biết về các bệnh hô hấp đồng mắc với COPD là rất quan trọng vì nó giúp bệnh nhân có thể nhận ra các triệu chứng và biện pháp phòng ngừa sớm hơn. Dưới đây là một số bệnh hô hấp thường gặp đồng mắc với COPD.
1. Ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ
Bệnh nhân COPD có thể có thêm ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ.
– Ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ (Obstructive Sleep Apnea – OSA) là một tình trạng bệnh lý phổ biến trong đó có sự gián đoạn của quá trình hô hấp khi ngủ do tắc nghẽn đường thở. Đây là một vấn đề nghiêm trọng đối với bệnh nhân COPD, do đường thở của bệnh nhân đã bị hạn chế do tổn thương mô phổi và một số yếu tố khác.
– OSA có thể gây ra những tác động tiêu cực đến sức khỏe của bệnh nhân COPD, bao gồm:
- 1. Tăng nguy cơ suy tim: Sự gián đoạn của quá trình hô hấp khi ngủ có thể dẫn đến giảm lượng oxy trong máu và tăng lượng carbon dioxide, gây ra tình trạng stress cho tim mạch và đưa đến tình trạng suy tim.
- 2. Tăng nguy cơ đột quỵ: OSA có thể dẫn đến tăng huyết áp và bệnh nhân COPD có nguy cơ cao hơn bị đột quỵ.
- 3. Giảm chất lượng giấc ngủ: Tình trạng OSA có thể dẫn đến giảm chất lượng giấc ngủ, gây ra mệt mỏi, chán ăn.
- 4. Tăng nguy cơ tai biến: OSA có liên quan đến tăng nguy cơ tai biến.
– Để chẩn đoán OSA, bác sĩ có thể yêu cầu bệnh nhân thực hiện các xét nghiệm như đo lưu lượng khí thở, giám sát giấc ngủ qua đêm, hoặc đo mức độ oxy trong máu.
– Để điều trị OSA ở bệnh nhân COPD, bác sĩ có thể đưa ra các giải pháp như sử dụng máy hỗ trợ thở khi ngủ (Continuous Positive Airway Pressure – CPAP) hoặc sử dụng thiết bị hỗ trợ hô hấp khác. Đồng thời, việc điều trị COPD một cách hiệu quả cũng là một phần quan trọng để giảm thiểu tình trạng ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ ở bệnh nhân COPD.
– Hậu quả:
– Giảm độ bão hòa oxy khi ngủ, tổng thời gian ngủ có giảm oxy máu và tăng CO2 máu nhiều hơn.
– Trong lúc ngưng thở khi ngủ: oxy máu giảm nhiều hơn, loạn nhịp tim nhiều hơn.
– Tăng áp động mạch phổi.
– Tiên lượng kém hơn.
– Cần nghĩ đến ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ khi:
– Ngủ ngáy.
– Buồn ngủ ngày quá mức.
– Giảm oxy-máu không tương xứng với mức độ tắc nghẽn.
Chẩn đoán xác định: đo đa ký hô hấp hoặc đa ký giấc ngủ.
Điều trị: xem xét thở máy không xâm nhập CPAP hoặc BiPAP, dụng cụ hàm mặt, điều trị oxy nếu cần để bảo đảm bão hòa oxy trên 90%.
2. Ung thư phổi
Nguy cơ: COPD hay phối hợp cùng ung thư phổi, nhất là ở bệnh nhân tuổi cao, tiền sử hút thuốc lá nặng, có khí phế thũng.
Có thể chẩn đoán sớm bằng chụp CLVT ngực liều thấp (low dose chest computed tomography, LDCT) có hiệu quả cải thiện khả năng sống sót ở bệnh nhân có tiền sử hút thuốc lá ≥ 30 bao năm, vẫn đang hút hoặc bỏ chưa quá 15 năm. Tuy nhiên phương pháp này chưa phổ biến vì tốn kém và có nhiều bất cập như can thiệp quá mức, theo dõi không đầy đủ.
3. Giãn phế quản
Do 2 bệnh có cùng triệu chứng hô hấp không đặc hiệu và bất thường chức năng phổi tương tự, và mặt khác CNTK được sử dụng phổ biến hơn CLVT nên chẩn đoán giãn phế quản dễ bị bỏ sót ở bệnh nhân hút thuốc lá, có ho khạc đờm và hạn chế lượng khí thở ra.
Lâm sàng: 2 đặc điểm nổi bật là lượng đờm hàng ngày nhiều và thường có nhiều đợt kịch phát. Tần suất có Pseudomonas aeruginosa định cư trong phế quản cao, và nguy cơ tử vong do mọi nguyên nhân cao hơn. Khám phổi có thể nghe ran ứ đọng. Xquang ngực có thể thấy hình ảnh tổ ong hoặc hội chứng phế quản.
Chẩn đoán xác định: chụp CLVT ngực lớp mỏng 1 mm độ phân giải cao.
Điều trị: điều trị cả COPD và giãn phế quản trong đó chú trọng kiểm soát nhiễm trùng cấp và mạn. Lưu ý trong trường hợp có giãn phế quản kèm theo thì ICS có thể không có chỉ định trong điều trị COPD, đặc biệt ở bệnh nhân có vi khuẩn định cư trong cây phế quản và nhiễm trùng hô hấp dưới tái diễn, trừ khi bệnh nhân có eosinophil máu cao và/hoặc dấu hiệu của tăng phản ứng phế quản. Điều trị thay thế trong trường hợp này là macrolides hoặc roflumilast là điều trị có hiệu quả kháng viêm tăng bạch cầu đa nhân trung tính và bệnh nhân có ho khạc mạn tính.
4. Lao phổi
Việt Nam là nước có độ lưu hành bệnh lao cao. Lao là bệnh thường gặp, có thể có trước, hoặc sau khi có chẩn đoán COPD. Lưu ý lao phổi mới hoặc tái phát có thể bỏ sót trong quá trình chăm sóc điều trị COPD.
COPD có nguy cơ cao bị lao phổi, và là bệnh đồng mắc đứng hàng thứ hai sau tiểu đường ở bệnh nhân lao. Tiền sử lao có tác động tiêu cực trên diễn tiến dài hạn của COPD với tử vong sớm hơn và tăng tần suất các đợt kịch phát.
COPD cũng thay đổi bệnh cảnh của lao và là yếu tố nguy cơ tăng bệnh tật và tử vong do lao. Khi có lao đồng mắc COPD, cần điều trị song hành 2 bệnh. Không có điều trị khác biệt cho bệnh lao đồng mắc và ngược lại.
Tóm lại, bệnh nhân COPD có thể đồng mắc với nhiều bệnh lý hô hấp khác, vì vậy, việc đưa ra chẩn đoán chính xác và điều trị đúng bệnh là rất quan trọng để cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.
Nguồn tham khảo: Bộ Y tế
Leave a Reply