Đại cương làm thẳng hàng răng bằng hệ thống neo giữ.

Thành công của giai đoạn làm thẳng hàng răng phụ thuộc vào việc chúng ta có nhận biết được những di chuyển răng không mong muốn có thể xảy ra trong giai đoạn đầu của điều trị, chủ yếu liên quan đến độ nghiêng gần xa đã được tạo sẵn trong mắc cài điều chỉnh sẵn. Cùng tìm hiểu sâu hơn vào vấn đề.

1. Giới thiệu và định nghĩa về làm thẳng hàng răng

Thông thường thì đạt được thẳng hàng răng là mục tiêu đầu tiên của các bác sĩ chỉnh nha trong giai đoạn điều trị đầu tiên và nó có thể được định nghĩa như sau:

Đó là sự di chuyển răng cần thiết để có thể đẩy được dây thép chữ nhật kích thước 0.19/0.25 vào trong khe mắc cài và đạt được dạng cung phù hợp với hệ thống mắc cài 0.22 điều chỉnh sẵn được đặt chính xác.

Thành công của giai đoạn làm thẳng hàng răng phụ thuộc vào việc chúng ta có nhận biết được những di chuyển răng không mong muốn có thể xảy ra trong giai đoạn đầu của điều trị, chủ yếu liên quan đến độ nghiêng gần xa đã được tạo sẵn trong mắc cài điều chỉnh sẵn. Cần kiểm soát chặt chẽ những dịch chuyển không mong muốn này của răng, hay tình trạng sai khớp cắn càng tồi tệ hơn trong quá trình làm thẳng hàng răng. Tình trạng này sẽ làm kéo dài thời gian điều trị và đòi hỏi nhiều cố gắng hoàn tất điều trị trong các giai đoạn sau.

Tuy nhiên trong suốt quá trình làm thẳng hàng răng thì sự dịch chuyển của các răng phải được tính toán tập trung vào mục tiêu điều trị cuối cùng. Nên sử dụng mọi biện pháp kiểm soát neo giữ để hạn chế sự dịch chuyển răng không mong muốn. Trong phần viết này, thuật ngữ “kiểm soát neo giữ trong quá trình làm thẳng hàng răng” sẽ có nghĩa là:

Các biện pháp sử dụng để hạn chế những thay đổi không mong muốn trong giai đoạn đầu của điều trị, sao đạt được thẳng hàng răng mà không làm cho những chìa khóa khớp cắn trở nên tồi tệ hơn.

Mục tiêu ngắn hạn nằm trong mục tiêu dài hạn

Làm thẳng hàng răng cần xem xét dựa trên những mục tiêu ngắn hạn và mục tiêu dài hạn:

  • Mục tiêu điều trị ngắn hạn trong những tháng điều trị đầu tiên sẽ là cố gắng đạt được sự thẳng hàng răng hợp lý để có thể đưa dây cung thép chữ nhật vào được trong khe mắc cài.
  • Mục tiêu điều trị dài hạn chỉ có thể đạt được khi kết thúc điều trị. Đó là đạt được một bộ răng lý tưởng thông qua sáu chìa khóa khớp cắn bình thường với bộ răng chuẩn trong một khuôn mặt phù hợp.

Kinh nghiệm chỉ ra rằng nếu nôn nóng muốn đạt mục tiêu điều trị ngắn bằng cách bỏ bớt giai đoạn điều trị, sử dụng lực mạnh, sẽ gây ra những thay đổi không mong muốn. Sẽ làm cho mục tiêu điều trị dài hạn khó đạt hơn.

Những nguyên tắc kiểm soát neo giữ

Có hai nguyên tắc chính để kiểm soát neo giữ:

  1. Giảm nhu cầu neo giữ trong quá trình làm thẳng hàng răng: Giảm thiểu các yếu tố ảnh hưởng đến neo giữ, những yếu tố làm di chuyển răng không mong muốn – giảm yêu cầu neo giữ.
  2. Neo giữ tăng cường trong quá trình thẳng hàng răng ở những nơi cần thiết, ví dụ neo giữ tăng cường bằng cung khẩu cái, cung lưỡi để giúp kiểm soát tốt một răng hay một nhóm răng nào đó.

Nhu cầu neo giữ phụ thuộc vào từng trường hợp bệnh nhân. Neo giữ tăng cường không phải khi nào cũng cần cho cả hai hàm đối với mọi bệnh nhân. Ví dụ, đối với một số trường hợp class I, class II tiểu loại 2 thì không cần bất cứ một biện pháp neo giữ đặc biệt nào. Quá trình làm thẳng hàng không đòi hỏi phải kiểm soát neo giữ. Tuy nhiên, hầu hết các trường hợp vẫn cần có kiểm soát neo giữ thích hợp và chúng ta cần xác định mức độ cần thiết của neo giữ cho mỗi trường hợp, điều này rất quan trọng.

Các bước điều trị trong quá trình làm thẳng hàng răng

neo-giu
Khớp cắn class I chen chúc nặng, răng số 4 đã nhổ đi từ trước, răng cửa bên trên phải cắn chéo, khớp cắn tận cùng trượt 2mm.
neo-giu-1
Bắt đầu làm thẳng hàng với dây cung đa sợi 0.15 cho hàm trên và dây Niti kích hoạt nhiệt O16 cho hàm dưới, đặt khâu cho răng cửa bên hàm trên phải, buộc hơi lỏng lẻo vào dây cung.
neo-giu-2
Sau 2 tháng, gắn mắc cài cho rằng cửa bên trên phải, không đảo chiều mắc cài bởi vì vị trí của chân răng này đúng, không cần kiểm soát độ xoay. Dùng dây cung thép đa sợi để làm thẳng hàng răng trên, dây cung thép uốn 0.14 cho hàm dưới.
neo-giu-3
Sau 4 tháng điều trị có thể đặt dây cung chữ nhật kích hoạt nhiệt O19/O25 cho hàm trên và hàm dưới. Dây này có tác dụng trong vài tháng, có thể thay đổi chun buộc mắc cài nếu cần.
neo-giu-4
Sau khi hoàn tất giai đoạn thẳng hàng răng. Đưa dây cung thép chữ nhật O.19/O25 hình trứng vào trong khe mắc cài với mắc cài O22.
Sau khi tinh chỉnh và tháo bỏ khí cụ, các răng khít với nhau tốt do kích thước của răng cửa bên trên to.

2. Nhận biết nhu cầu neo giữ cho từng bệnh nhân

Trong giai đoạn chẩn đoán và lập kế hoạch điều trị cho mỗi bệnh nhân, thì mục tiêu điều trị nhắm vào vị trí răng cửa trong khuôn mặt khi kết thúc điều trị. Việc quyết định vị trí răng cửa theo kế hoạch (planed incisor position: PIP)

Nhu cầu kiểm soát neo giữ cho từng trường hợp khi bắt đầu điều trị có thể được xác định bằng cách so sánh vị trí ban đầu của răng cửa trên và dưới với vị trí răng cửa theo kế hoạch khi kết thúc điều trị. Trong quá trình làm thẳng hàng răng phải kiểm soát neo giữ để đảm bảo không có sự thay đổi đối với răng cửa trên và dưới, hoặc nếu di chuyển thì phải theo chiều hướng “vị trí răng cửa theo kế hoạch”. Lý tưởng nhất là sự di chuyển các răng cửa phải theo chiều hướng “vị trí răng cửa theo kế hoạch” trong suốt quá trình thẳng hàng răng, có như vậy thì sẽ giảm được số răng cần di chuyển trong những giai đoạn điều trị sau.

Trường hợp sai khớp cắn loại II, tiểu loại 1

neo-giu-5
Sai khớp cắn loại II, tiểu loại 1

Khi bắt đầu điều trị, răng cửa hàm trên thường ở trước “vị trí răng cửa theo kế hoạch”, và neo giữ tối đa theo chiều trước – sau để ngăn chặn hiện tượng di gần làm tăng độ cắn chìa. Như thảo luận tiếp theo ở chương này, kiểm soát neo giữ cung hàm trên sẽ được giải quyết bằng cách buộc về sau và bẻ dây cung phía sau. Có thể được tăng cường bằng cung khẩu cái, Headgear hoặc chun class II.

Răng cửa dưới thường ở đúng hay sau “vị trí răng cửa theo kế hoạch”, cần neo giữ để ngăn răng cửa nghiêng về phía trước trong quá trình làm thẳng hàng. Trong hầu hết các trường hợp, cần cẩn thận tránh tạo lực lên dây cung quá mức, để tránh gây ra hiệu ứng cuộn và khớp cắn sâu.

Mối quan tâm lớn nhất là sự thay đổi theo chiều trước/sau. Nhưng kiểm soát độ xoay và kích thước dọc cần được cân nhắc và điều chỉnh hợp lý ở từng vị trí.

Trong dạng sai khớp cắn dưới đây, vị trí răng cửa ban đầu là đường màu đen và “vị trí răng cửa theo kế hoạch” (PIP) có màu xanh, đưa ra lời giải thích liên quan đến yêu cầu điều trị của trường hợp này. Mỗi bệnh nhân điều trị chỉnh nha thì khác nhau. Và yêu cầu kiểm soát neo giữ quyết định bởi vị trí răng cửa so với “vị trí răng cửa theo kế hoạch”, chứ không phải quyết định bởi tương quan răng cối lớn theo phân loại cổ điển của Angle.

Trường hợp sai khớp cắn loại III

Sai khớp cắn loại III

Trong trường hợp này, răng cửa hàm trên nằm sau PIP khi bắt đầu điều trị, mặc dù trong các trường hợp loại III khác chúng có thể trùng với PIP hoặc thậm chí ở phía trước PIP. Vì thế, buộc và uốn cong dây ở phía sau sẽ bị cấm dùng cho hàm trên trong nhiều trường hợp loại III, tránh cho các răng cửa hàm trên lùi lại, thể hiện độ xoay phù hợp theo PIP, cho phép phát triển cung hàm trên.

Kiểm soát neo giữ chỉ cần thiết nếu các răng cửa hàm trên có nguy cơ ngả vào trong quá mức, xa hơn nhiều so với PIP.

Những răng cửa hàm dưới ở xa trước PIP trong sai lệch khớp cắn loại III. Vì thế, những cung hàm dưới thông thường yêu cầu có sự kiểm soát neo giữ đầy đủ với buộc và uốn dây ở phía sau, có thể tăng cường với cung lưỡi hoặc chun loại III hoặc kết hợp cả hai.

Trường hợp vẩu hai hàm

Trường hợp vẩu hai hàm

Bình thường cần kiểm soát neo giữ tối đa cho cả hai hàm trong các trường hợp này, bởi vì những răng cửa hàm trên, hàm dưới sẽ ở trước PIP khi bắt đầu điều trị.

Điều thú vị là độ nghiêng gần xa của mắc cài luôn không đóng vai trò quan trọng trong những trường hợp này, bởi vì những thân răng đã nghiêng gần ngay khi bắt đầu điều trị. Mặc dù vậy, kiểm soát neo giữ tối đa là thích hợp nhất trong giai đoạn điều trị ban đầu để đảm bảo thuận lợi cho việc kéo nhóm răng trước về phía sau.

Trường hợp lùi hai hàm: class II, tiểu loại 2

Sai khớp cắn loại II, tiểu loại 2

Trong trường hợp này thì yêu cầu điều trị là để các răng cửa tự do dịch chuyển về phía trước dưới tác dụng của dây cung. Vì thế không buộc và uốn dây cung phía sau để tạo điều kiện cho độ nghiêng mắc cài răng cửa phát huy tác dụng.

Lúc bắt đầu điều trị, khớp cắn sai với răng nanh nghiêng xa là chỉ định cho việc sử dụng dây cung rất nhẹ, tạo điều kiện cho độ nghiêng về phía trước và các thay đổi theo chiều đứng xảy ra sớm và thường là không cần kiểm soát neo giữ.

3. Sai lầm thường gặp khi làm thẳng hàng răng

Độ nghiêng gần xa được đặt vào trong các mắc cài răng trước của hệ thống khí cụ điều chỉnh sẵn gây ra những khó khăn đáng kể trong thời kỳ đầu. Độ nghiêng gần xa của mắc cài làm cho thân các răng cửa nghiêng ra trước trong thời kỳ đầu của giai đoạn làm thẳng hàng răng.

neo-giu-5
Độ nghiêng gần xa được tạo ra trong những mắc cài răng trước của hệ thống khí cụ làm cho thân các răng trước nghiêng về phía trước trong giai đoạn đầu làm thẳng hàng răng.

Trong thời kỳ đầu này người ta đã thử loại bỏ hoặc giảm thiểu hiệu ứng này bằng cách buộc nhóm răng trước vào nhóm răng phía sau bằng dây chun. Nhưng khi dùng dây chun thì đòi hỏi kiểm soát neo giữ rất lớn trong giai đoạn làm thẳng hàng. Như vậy, nếu lực của dây chun lớn hơn lực làm thẳng hàng răng của dây cung thì có xu thế làm các răng phía trước sẽ nghiêng và xoay về phía xa làm tăng đường cong Spee và khớp cắn sâu. Điều này đặc biệt rõ ràng trong trường hợp nhổ răng cối nhỏ thứ nhất và được nhắc tới như hiệu ứng cuộn.

Sử dụng lực của dây chun quá mạnh để kéo răng nanh về phía sau thường tạo nên xu thế cắn sâu vùng răng cửa và xu thế khớp cắn hở ở phía bên, gọi là hiệu ứng cuộn xảy ra trong điều trị ở những năm 1970 – 1980. Người ta đã nhận thấy hiệu ứng của lực dây chun tác dụng lên răng nanh trong những trường hợp nhổ răng và sử dụng dây cung nhỏ: (a) Nghiêng răng và xoay về phía răng nhổ; (b) Khớp căn hở vùng răng cối nhỏ; (c) Khớp cắn sâu vùng răng cửa.

Hiện nay hiệu ứng cuộn hiếm khi gặp nhờ có sự điều chỉnh độ nghiêng gần xa trong hệ thống mắc cài MBT, các lực dây cung nhẹ hơn và sử dụng cách buộc về phía sau cho các răng nanh thay thế cho chun chuỗi.

Theo: Systemized Orthodontic Treatment Mechanics – Richard P. McLaughlin BS DDS


Posted

in

,

by

Tags:

Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *