Bệnh sán máng phổi (Pulmonary Schistosomiasis) được đặc trưng bởi tình trạng tổn thương phổi do ký sinh trùng sán máng (thuộc giống Schistosoma) gây ra. Biểu hiện của phổi trong bệnh sán máng phụ thuộc vào chủng loại, số lượng ký sinh trùng, phản ứng miễn dịch của người bệnh và cả các giai đoạn nhiễm trùng. Sau đây, chúng ta cùng tìm hiểu sơ lược về bệnh sán máng phổi.
1. Đặc điểm dịch tễ của bệnh sán máng phổi
Bệnh sán máng còn được gọi là bệnh Bilharzs hay sốt ốc là một bệnh nhiễm ký sinh trùng, gây ra bởi một số loài sán thuộc giống Schistosoma. Sán máng phổi có thể gặp ở những người nhiễm S.mansoni, S.japonicum hoặc S.haematobium có lách to. Sau khi xâm nhập qua da, trứng sán chu du đến tiểu động mạch phổi. Tại đây nó gây ra những bệnh lý tại phổi.
Bệnh sán máng thường gặp những khu vực đang phát triển như châu Á, châu Phi và khu vực Nam Mỹ, đặc biệt ở những vùng có tồn tại nhiều ốc nước ngọt – điều kiện và vật chủ trung gian gây bệnh sán máng. Trên thế giới, ước tính có khoảng 1,5 tỷ người trong hơn 190 quốc gia bị ảnh hưởng bởi loại ký sinh trùng này (2021 – theo WHO). Sự lan truyền bệnh khác biệt nhau ở một vài nước. Đặc biệt là những quốc gia có yếu tố dịch tễ như làm nông nghiệp; làm việc, sinh hoạt ở những nơi có nguồn nước bị ô nhiễm,… thì nguy cơ mắc bệnh sẽ cao hơn. Ở những vùng có dịch tễ, trẻ em là đối tượng dễ bị nhiễm bệnh. Cường độ và khả năng ảnh hưởng của bệnh tăng theo tuổi và đạt đỉnh điểm ở độ tuổi giữa 10-20 tuổi. Ngày nay, người ta còn phát hiện thấy nhiều trường hợp mắc Schistosomiasis ở những nước không có yếu tố dịch tễ do tình trạng di cư và khách tham gia du lịch ngày càng phát triển.
2. Ký sinh trùng sán máng xâm nhập vào cơ thể con người như thế nào?
Tác nhân gây bệnh: Ký sinh trùng sán máng (Genus chistosoma -S.monsoni, S.mekongi, S.intercalatum, S.hematobium, và S.japonicum)
Vật chủ: Ốc nước ngọt họ Planorbidae là vật chủ trung gian truyền bệnh ấu trùng sán máng và con người cũng là một vật chủ trung gian.
Chu trình phát triển và gây bệnh của sán máng phổi:
- Nguồn nước ngọt bị ô nhiễm bở phân và nước tiểu của những bệnh nhân bị bệnh sán máng – chứa rất nhiều trứng sán máng.
- Trứng sán máng gặp nước sẽ nở thành các ấu trùng sán máng có lông bơi tự do trong nước.
- Khi gặp vật chủ là ốc, các ấu trùng sán xâm nhập và sinh sản vô tính để tạo ra hàng nghìn ấu trùng có đuôi rồi chui ra khỏi ốc
- Da người khi tiếp xúc với nguồn nước chứa các ấu trùng sán có đuôi này, chúng sẽ bám dính, xuyên qua da và di chuyển theo mạch máu và chu du đến phổi và ở đó chúng thực hiện các bước thay đổi, p hát triển cần thiết để tiếp tục di chuyển tới gan.
- Tại gan, chúng kết hợp với nhau, thường ở vị trí tĩnh mạch cửa hoặc hệ thống bể chứa máu, để đẻ trứng.
- Trứng này có thể chu du xuống bàng quang, ruột và được đào thải qua phân và nước tiểu.
Như vậy, phổi chính là cơ quan đầu tiên mà các ký sinh trùng sán tới để trưởng thành và đồng thời nó gây ảnh hưởng đến các chức năng của phổi.
![chu trình sán máng phổi](http://noithathoaphat.in/ctv/wp-content/uploads/2023/04/chu-trinh-san-mang-phoi-256x300.jpeg)
3. Biểu hiện của phổi trong bệnh sán máng là gì?
Tổn thương phổi do sán máng không phải hiếm gặp. Tình trạng tổn thương còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chủng loại gây bệnh, số lượng ký sinh trùng, đáp ứng miễn dịch của người nhiễm sán và cả giai đoạn nhiễm trùng. Lâm sàng của bệnh phổi do sán máng có thể biểu hiện cấp, bán cấp hoặc mạn tính do tính phức tạp của chu trình phát triển của sán trong vật chủ, các thể tổn thương của phổi gây ra.
3.1 Nhiễm sán máng phổi cấp tính
Thời gian: 2-4 tuần sau khi người bệnh tiếp xúc với yếu tố nguy cơ bên ngoài. Thường gặp ở những du khác đến với những vùng có yếu tố dịch tễ.
Biểu hiện của nhiễm sán máng phổi cấp tính có thể gây ra viêm phổi thoáng qua, thâm nhiễm mau bay trên phim XQ (Hội chứng Loeffler). Người bệnh có thể biểu hiện các triệu chứng cấp tính như sốt, ho, thở rít và ban đỏ trên da kết hợp với tăng bạch cầu ái toan (hội chứng Katayama). Ngoài ra bệnh nhân cũng có thể rét run, đau đầu, nổi hạch ngoại biên và gan lách to.
3.2 Nhiễm sán máng phổi bán cấp
Tùy thuộc vào chủng loại, sán máng sẽ chu du từ các mạch máu hệ cửa đến vị trí đẻ trứng. Trứng sán sẽ di chuyển ngược dòng tĩnh mạch vào tổ chức được dẫn lưu bằng tĩnh mạch, kích thích phản ứng viêm mạch và hình thành u hạt, gây tắc nghẽn cách mạch máu tại phổi. Có thể gặp tắc động mạch phổi trong trường hợp nhiễm S.haematobium. Phản ứng viêm hạt có thể lan tỏa khu trú hoặc có thể lan rộng ra. Quá trình này có thể không có triệu chứng.
Biểu hiện lâm sàng ở giai đoạn này có thể gặp như ho, thiếu oxy, phù phổi và có thể dẫn tới nguy cơ tử vong. Chụp XQ có hình ảnh đám mờ, đôi khi có tràn dịch màng phổi.
3.3 Nhiễm sán máng phổi mạn tính
Tổn thương thường gặp trong giai đoạn này thường là u hạt hoặc tổn thương kẽ do viêm mạch. Tùy vào từng loại sán máng mà biểu hiện ở các cơ quan khác nhau. S.haematobium gây tình trạng nghẽn mạch nặng do trứng sán từ đám rối tĩnh mạch hang đến phổi. Đối với nhiễm S.mansoni và S.japonicum do sán trưởng thành sống trong tĩnh mạch mạc treo bị ứ đọng lại tại các tiểu tĩnh mạch của trong gan gây ra u mạch, tắc tĩnh mạch cửa và qua nhiều năm gây ra xơ hóa dẫn đến tăng áp lực tĩnh mạch cửa. Sau đó, cacsc nhánh nối tĩnh mạch cửa cho phép trứng sán trực tiếp đi đến phổi gây lên bệnh phổi kẽ do sán máng.
Biểu hiện lâm sàng chủ yếu ở giai đoạn này bao gồm tăng áp lực động mạch phổi, tâm phế mạn, khó thở, giảm hoạt động gắng sức, thiếu oxy nặng, đau ngực và ngón tay dùi trống có thể gặp
Tóm lại, triệu chứng của bệnh sán máng phổi rất đa dạng. Nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố để gây ra những biểu hiện khác nhau trên lâm sàng. Để có thể chẩn đoán chính xác bệnh, giai đoạn bệnh và các biến chứng mà sán máng gây ra, các bạn cần phải thăm khám tại những nơi uy tín và đảm bảo chất lượng.
Leave a Reply