Trám bít hệ thống ống tuỷ nhằm mục đích bít kín và chặt khoảng trống trong ống tuỷ tới vùng tiếp xúc ngà – cement kể cả các ống tuỷ phụ bằng chất trơ, kích thước cổ định và tương hợp sinh học. Bài viết này sẽ đề cập đến tổng quan các loại vật liệu sử dụng trong quá trình trám bít ống tuỷ thường quy, ưu và nhược điểm của chúng. Cùng bàn luận sâu vào vấn đề.
1. Tiêu chuẩn của vật liệu trám bít ống tuỷ
Đã có nhiều loại vật liệu trám bít ống tuỷ được khuyến khích phát triển qua nhiều năm kể từ khi vật liệu thạch cao Paris, các kim loại quý như vàng và iridioplatinum được sử dụng. Ngày nay, nhiều vật liệu đã bị loại bỏ bởi không thích ứng với chuyên ngành nha khoa cũng như vấn đề sinh học và vấn đề thực dụng. Mặc dù hiện nay chưa có vật liệu trám lý tưởng, nhưng Grosman đã chỉ ra những yêu cầu đối với một vật liệu trám ống tuỷ lý tưởng.
– Dễ đưa vào với thời gian làm việc thoải mái.
– Cản quang và dễ nhìn trên phim Xquang.
– Ổn định về kích thước, không bị co khi trám
– Bịt kín được chóp răng và mặt bên ống tuỷ, phù hợp với giải phẫu bên trong của chúng.
– Không thấm, không bị rò.
– Ức chế vi khuẩn phát triển.
– Không kích thích mô quanh chóp.
– Không bị ảnh hưởng bởi dịch mô, không bị mòn hoặc oxy hoá.
– Không làm biến màu răng.
– Dễ lấy ra khi cần thiết.
– Vô trùng.
2. Phân loại vật liệu trám bít ống tuỷ
Có thể xếp loại vật liệu trám bít ống tuỷ như sau:
2.1. Loại paste
Loại này gồm xi măng ZnO eugenol với nhiều loại thêm vào như: ZnO và resin tổng hợp (Cavit), epoxy resin (Ah26), acrylic, polyethylene, polyvinyl được dùng như một chất trám bít ống tuỷ đơn thuần. Tuy nhiên, phần nhiều dạng kem thường tiêu ngót và được mang đi bởi đại thực bào, dẫn tới việc trám rỗng, hổng tại 1/3 chóp. Hơn nữa những xi măng trám bít dạng paste thường trám thiếu hổng bởi lý do không thể nhồi được nên phải dùng cây lentulo để đưa xi măng vào ống tuỷ. Việc trám dư cũng thường xảy ra và có thể dễ dàng quan sát được qua phim tia X đưa tới những hậu quả như viêm quanh chóp, tiêu ngót chân răng – xương ổ răng cũng như đau mạn tính. Ngoài ra, các loại xi măng khi cứng rất khó lấy đi trong trường hợp phải điều trị lại. Tuy nhiên, cũng có thể tiếp tục sử dụng loại xi măng oxide kẽm – engenol này với điều kiện vật liệu cốt lõi trong việc trám bít ống tuỷ là guttapercha.
2.2. Loại bán đặc
Những côn guttapercha được xếp vào loại này.
2.3. Loại đặc
Loại này được chia làm hai loại:
– Loại bán cứng (dễ uốn được) gồm còn bạc hay dụng cụ bằng thép không gỉ. Tuy nhiên, chúng không trám được ống tuỷ có hình dạng bất thường và có thể bị ăn mòn, tạo nên sản phẩm gây độc tế bào. Vì vậy, ngày nay không được dùng nữa. Loại này có thể bẻ cong để thích hợp với chiều cong của ống tuỷ.
– Loại cứng:
+ Vitalium và chrome cobalt để làm implant thì cứng không uốn được như loại trên. Loại này dùng để cắm ghép nội nha hay để tăng cường cho vững những trường hợp gãy chân răng, chân răng bị tiêu.
+ Amalgam bạc: Trước đây được dùng rộng rãi, trong những trường hợp nội tiêu, ngoại tiêu hay thủng chân răng hoặc để trăm ngược và các ống tuỷ phụ lớn. Hiện nay ít dùng.
+ IRM và super EBA là chất trám có tính tương hợp tốt coi như loại xi măng trám ngược trong phẫu thuật nội nha hoặc được chỉ định làm vật liệu trám khi răng chưa đóng kín cuống. Ion Calci giải phóng từ MTA, phản ứng với phosphat trong dịch mô tổng hợp tạo ra hydroxyl apatit. MTA vô khuẩn, tương hợp sinh học và có thể gây hình thành mô rắn. Vật liệu này đông cứng trong vùng lỗ cuống và cho phép đưa guttapercha vào mà không sợ bị đẩy ra ngoài cuống. Kỹ thuật này nhanh, thành công trên lâm sàng, bệnh nhân không phải đi lại nhiều lần và không bị tái nhiễm.
2.4. Xi măng sealer
Xi măng sealer được dùng trong việc trám bít ống tuỷ với những cone bán đặc, đặc hay cứng, có tính nối dính giữ các cây côn và thành ống tuỷ, làm trơn và giúp cho các cây côn yên vị. Nó cũng có nhiệm vụ trám bít các ống tuỷ phụ và các lỗ chóp (foramen). Một số vật liệu mới dựa trên kỹ thuật gắn dentin (ống ngà) nhằm nâng cao chất lượng trăm ống tuỷ và làm mạnh cuống răng.
a) Một số xi măng dùng để trám bít:
SEALER GROSSMAN: Loại này được dùng rộng rãi và đáp ứng đòi hỏi cho một sealer lý tưởng, với sự kích thích tối thiểu và có tính kháng khuẩn cao.
– Thành phần:
+ Bột:
ZnO: 42%
Staybelite resin : 27%
Bismuth subcarbonate: 15%
Barium Sulfate: 15%
Sodium borate anhydrons: 1%
Nước eugenol
+ AH26: Đó là epoxy resin với độ hoà tan chậm, thành phần:
Bạc ở dạng bột: 10%
Bisimuth trioxide: 60%
Titanium dioxide: 5%
Hexamethy lene tetramine: 25%
Nước: Bisphenol diglycidyl ether: 100%
Tính dính cao, tính chống khuẩn, ít độc hại và chấp nhận tốt đối với mô quanh chóp.
Soạn phần xi măng trám: Người ta dùng một tấm kính và một cây trộn khử trùng. Không nên dùng quá ba giọt nước cho mỗi lần trám. Có 2 test để thử độ quánh đặc của xi măng.
1. Test chảy xuống (droptest): Gom xi măng trên cây trộn và nhấc lên, xi măng không được chảy trong vòng 10 đến 12 giây. Có thể dùng 1 trâm số 25 đưa nhúng vào khối xi măng và để thẳng đứng, xi măng không được chảy trong vòng 10 giây.
2. Test kéo dài (String out test): gom xi măng trên cây trộn và nhấc lên từ từ, xi măng sẽ chảy dài ít nhất linch mà không bị đứt.
3. Vật liệu trám bít ống tuỷ – Guttapercha
Được phổ biến bởi Bowman từ năm 1867 cho đến nay, chất này vẫn được dùng rộng rãi để trám bít ống tuỷ, có tính rất ít độc, ít kích thích mô, ít gây dị ứng nhất. Guttapercha là một chất đồng phân xuyên của polyisopren tồn tại dưới 2 dạng kết tỉnh (alpha và beta) có đặc tính khác nhau.
– Thành phần của cone guttapercha tuỳ thuộc vào nhà sản xuất, có khoảng 20% guttapercha, 65% oxide kẽm 10% radiopacifin, 5% chất làm mềm dẻo được cấu trúc dưới 2 dạng:
+ Loại chuẩn: có số tương đương với số các cây trâm dùng để sửa soạn ống tủy, thường làm cone chính (cây cone đầu tiên).
+ Loại không chuẩn: thường đầu nhọn, dùng làm cone phụ trong phương pháp lên ngang, lên dọc.
– Guttapercha được chọn làm vật liệu trám bít ống tuỷ trong những trường hợp sau:
+ Ở những răng đòi hỏi dùng chốt để tăng cường việc tái tạo lại thân răng bị vỡ quá lớn.
+ Ở những răng trước đòi hỏi tẩy trắng và sẽ thực hiện việc cắt chóp.
+ Ở những trường hợp vách tuỷ không đều đặn hay ống tuỷ không tròn (oval, hạt đậu, dẹt dài) bởi giải phẫu hay do sự sửa soạn.
+ Khi có các ống tuỷ phụ, ống tuỷ bên hay khi có nhiều lỗ chóp (vùng tam giác).
+ Khi có ống tuỷ quá lớn, ta có thể dùng các cây guttapercha có sẵn cuộn lại với nhau để tạo thành cây cone lớn thích hợp.
Ngoài ra, còn có chloropercha và cucapercha: được tạo bởi G.P tan trong dung môi chloroform và eucalyptol dùng để trám bít ống tuỷ cong không bình thường hay trường hợp thủng hoặc có khấc trong ống tuỷ.
* Ưu điểm:
– Có một sự thích hợp hoàn hảo cho những ống tuỷ hay vách tuỷ không đều bằng phương pháp lèn ngang hay lèn đọc.
– Có thể làm mềm và trở nên dẻo bởi nhiệt độ hay dung môi.
– Là một chất trơ, không hoà tan trong nước.
– Có kích thước ổn định.
– Thích hợp với mô. Sau khi được sử dụng không sinh ra chất nào có thể gây độc hại cho mô, tế bào.
– Không làm đổi màu răng.
– Có tính cản quang.
– Dễ lấy đi khi cần.
* Nhược điểm:
– Thiếu sự cứng chắc, những cây cone nhỏ nhất thì khó dùng trừ trường hợp những cây cone lớn hơn số 30.
– Thiếu tính dính: guttapercha không dính vào thành ống tuỷ được nên đòi hỏi phải có sealer.
– Guttapercha (G.P) có thể xê dịch một cách dễ dàng và có thể kéo dài được. Bởi tính chất này nên dễ trám dư trong quá trình nhồi ép, cho nên khi trám guttapercha đòi hỏi phải có một nút chặn nơi chóp, nơi giao điểm của cement – ngà răng (chỗ thắt chóp) để tránh tai nạn trên.
Nguồn: Chữa răng và nội nha tập 2 – NXB Giáo dục Việt Nam
Leave a Reply