Auto-PEEP, còn được gọi là intrinsic PEEP hoặc PEEPi, là tình trạng xảy ra khi không thở hết không khí ra khỏi phổi trong thông khí nhân tạo, dẫn đến sự tích tụ của áp suất dương cuối thì thở ra (PEEP) bên trong đường thở của bệnh nhân. Điều này có thể gây ra nhiều biến chứng, bao gồm tổn thương hô hấp do áp lực , giảm hồi lưu tĩnh mạch về tim và giảm lượng oxy cung cấp cho các mô. Vì vậy, cần phải hiểu rõ nguyên nhân, các chẩn đoán và các biện pháp quản lý auto-PEEP.
1. Nguyên nhân của auto-PEEP
Có nhiều lý do khiến bệnh nhân được thông khí nhân tạo áp lực dương hình thành tình trạng auto-PEEP
- Thể tích thông khí phút (Minute ventilation) quá lớn: Thở máy với thể tích thông khí phút quá lớn xảy ra khi có thể tích lưu thông (thể tích khí trao đổi trong mỗi nhịp thở của bệnh nhân hay Tidal volume – VT) lớn không phù hợp (lớn hơn dung tích cặn chức năng của bệnh nhân) hoặc tần số thở quá cao hoặc cả hai.
- Thời gian hít vào (IT) kéo dài: Kéo dài thời gian của thì hít vào có thể được sử dụng để cải thiện khả năng oxy hóa máu ở bệnh nhân bị suy hô hấp khó điều trị. Khi thời gian hít vào tăng, thời gian thở ra phải giảm bắt buộc. Điều này có thể dẫn đến không thở hết thể tích khí lưu thông ra ngoài và dẫn tới auto-PEEP
- Kháng trở cao đối với dòng khí thở ra: Kháng trở lưu thông dòng khí (ví dụ như ống nội khí quản hẹp) có thể gây ra auto-PEEP bằng cách làm suy giảm hay cản trở dòng khí thở ra.
- Tốc độ dòng khí thở ra bị giới hạn: Một số bệnh cảnh làm tắc nghẽn đường dẫn khí trong phổi có thể làm giới hạn khả năng tống xuất khí bên trong phổi ra ngoài làm vận tốc khí thở ra bị giới hạn nghiêm trọng. Thay đổi suất đàn (compliance) của hệ hô hấp (bệnh lý thần kinh cơ liên quan các cơ thở ra gắn sức) cũng có thể giới hạn dòng khí thở ra
2. Hậu quả của auto-PEEP
Cùng cơ chế với PEEP được sử dụng chủ động, auto-PEEP gây ra những hậu quả tiêu cực không đơn thuần chỉ phụ thuộc vào giá trị của mức PEEP, mà là nằm ở tác động của PEEP lên áp lực phế nang cuối thì hít vào (end-inspiratory alveolar pressure) và áp lực trung bình trong lồng ngực.
Các mức PEEP làm tăng áp lực bên trong lồng ngực, như vậy làm cản trở quá trình trở về của máu tĩnh mạch (hồi lưu tĩnh mạch) và làm giảm cung lượng tim. Auto-PEEP cũng làm tăng áp lực phế nang cuối thì hít vào khiến phổi tăng nguy cơ tổn thương do vỡ phế nang.
Auto-PEEP làm ảnh hưởng đến hiệu quả lên huyết động của thông khí nhân tạo áp lực dương, tăng nguy cơ tổn thương phổi do áp suất và làm cho việc kích hoạt nhịp thở của bệnh nhân thông qua máy thở trở nên khó khăn hơn. Ngoài ra, auto-PEEP có thể dẫn đến ước tính sai về áp suất phế nang trung bình và khả năng dãn nở của phổi dẫn tới những can thiệp không phù hợp.
Theo một bài báo nghiên cứu trên tạp chí American Journal of Respiratory and Critical Care Medicine, các bệnh nhân thở máy rơi vào auto-PEEP sẽ dễ mắc các biến chứng như giảm khả năng dung nạp với thở máy, giảm khả năng oxy hóa máu của hệ hô hấp, và tổn thương phổi. Do đó, việc phát hiện và can thiệp làm giảm tỷ lệ auto-PEEP ở bệnh nhân thở máy là rất quan trọng trong việc duy trì sự thoải mái và sức khỏe của bệnh nhân.
3. Xác định auto-PEEP
Auto-PEEP có thể được xác định bằng cách thực hiện nghiệm pháp tạm ngưng thì thở ra (thường là 0,5 đến 1 giây) và sau đó đo trực tiếp áp suất đường thở ở cuối thì thở ra này. Ngoài ra, auto-PEE cũng có thể được xác định khi các dạng sóng của máy thở, nghe hoặc sờ (palpation) cho thấy lưu lượng khí thở ra vẫn đang còn tiếp tục mà chưa kết thúc hẳn trước khi nhịp thở kế tiếp được kích hoạt. Trong một nghiên cứu, thăm khám lâm sàng giúp xác định auto-PEEP với giá trị dự đoán dương và âm lần lượt là 95% và 58%. Điều này cho thấy thăm khám lâm sàng rất hữu ích để xác định auto-PEEP nhưng không phải để loại trừ auto-PEEP.
4. Xử trí auto-PEEP
Can thiệp ngay lập tức là cần thiết nếu phát hiện auto-PEEP đáng kể, một số biện pháp có thể được cân nhắc như:
● Thay đổi cài đặt máy thở: Các cài đặt máy thở nên được thay đổi để giảm hoặc loại bỏ auto-PEEP. Những tác động tác giúp làm tăng thời gian của thì thở ra có thể có lợi: tăng tốc độ dòng khí hít vào, giảm tần số hô hấp hoặc cả hai. Giảm thể tích thở ra hoặc sử dụng applied-PEEP để vượt qua auto-PEEP cũng có thể hữu ích.
● Giảm nhu cầu khí thở: Nhu cầu thở có thể giảm bằng cách giảm lượng carbohydrate, lo âu, đau đớn hoặc sốt. Điều này có thể giảm nhu cầu khí thở trên phút, có nghĩa là thể tích khí thở ra cho mỗi nhịp thở, do đó có giảm auto-PEEP.
● Giảm kháng trở với dòng khí thở ra: Giảm kháng dòng khí thở ra bằng cách hút dịch, sử dụng thuốc giãn phế quản và sử dụng ống thông khí đường dẫn rộng có thể giảm auto-PEEP.
Xác định và xử trí auto-PEEP là rất quan trọng trong bối cảnh bệnh nhân đang thở máy. Tại Vinmec, với kinh nghiệm và tay nghề chuyên môn, các chuyên gia của chúng tôi sẽ đưa ra các giải pháp điều trị phù hợp để giảm nguy cơ phát triển auto-PEEP và nâng cao hiệu quả điều trị cho bệnh nhân.
Leave a Reply