Hình ảnh tổn thương dây chằng chéo sau

Hình ảnh tổn thương dây chằng chéo sau được thực hiện qua các phương pháp chẩn đoán hình ảnh từ Xquang, siêu âm cho đến cắt lớp vi tính, cộng hưởng từ. Mỗi phương pháp có một vai trò và giá trị riêng.

Nhóm tác giả: PGS.TS. Trần Trung Dũng -TS. Đỗ Văn Minh

Năm xuất bản: 2016

1. Chụp X-quang thường quy

X-quang (XQ) khớp gối thường quy được chỉ định cho mọi trường hợp chấn thương khớp gối. Ở người bệnh tổn thương góc sau ngoài mạn tính, cơ chế giữ vững động của mặt ngoài khớp gối không hoạt động tối ưu. Điều này dẫn đến tình trạng xoay ra sau ngoài quá mức của xương chày và vẹo trong khớp gối trong khi đi. Bởi vậy đánh giá trục của chi dưới là rất cần thiết đối với người bệnh tổn thương góc sau ngoài mạn tính. Nếu có dấu hiệu vẹo trong của khớp gối ở người bệnh tổn thương góc sau ngoài mạn tính, đục xương sửa trục đầu trên xương chày là biện pháp điều trị hiệu quả bởi tái tạo phần mềm không đủ bình chỉnh lại trục của chi dưới. Tương tự như vậy, tổn thương DCCS mạn tính trên người bệnh có biểu hiện vẹo trong khớp gối tiên phát thì rất dễ bị tổn thương góc sau ngoài. Bởi vậy, để lập kế hoạch điều trị cho người bệnh đứt nhiều dây chằng của khớp gối, bác sĩ cần xác định độ nặng của từng tổn thương dây chằng cũng như trục ban đầu của chi dưới.

Phát hiện các trường hợp tổn thương xương khớp gối. Hình ảnh XQ của bệnh nhân tổn thương dây chằng chéo sau khớp gối có thể khác nhau giữa những bệnh nhân tổn thương dây chằng chéo sau cấp tính và những bệnh nhân tổn thương DCCS mạn tính. Trong những trường hợp tổn thương DCCS cấp tính chụp XQ khớp gối thường không phát hiện thấy tổn thương xương khớp gối trừ những trường hợp bong điểm bám của DCCS. Trong những trường hợp tổn thương dây chằng chéo sau mạn tính, chụp XQ khớp gối có thể phát hiện các dấu hiệu của thoái hóa khớp gối sau chấn thương. Các dấu hiệu thoái hóa khớp gối sau chấn thương có thể kín đáo, khó thăm khám và phát hiện trên phim chụp XQ khớp gối thẳng và nghiêng tiêu chuẩn mà cần một số tư thế chụp XQ hỗ trợ khác.

Bong diện bám của DCCS có thể phát hiện dễ dàng trên phim chụp XQ thường quy khớp gối thẳng và nghiêng. Đa số các tác giả ghi nhận, bong diện bám chày của DCCS thường gặp hơn nhiều lần so với bong diện bám đùi của dây chằng chéo sau. Trên phim chụp xọ khớp gối nghiêng có thể dễ dàng phát hiện thay hình ảnh bbng diện bám chày cùa dây chằng chéo sau cũng như đánh giá sự di lệch của diện bám.

 

Hình 1: Bong diện bám chày DCCS trên phim chụp X-quang gối thường quy 

Bong diện bám đùi của dây chằng chéo sau ít gặp hơn và hình ánh cũng kín đáo hơn so với bong diện bám chày của DCCS. Nhiều khi hình ảnh bong diện bám đùi của dây chằng chéo sau bị bỏ sót nếu không đánh giá kỹ trên phim chụp XQ thường quy. Trên phim chụp XQ hố gian lồi cầu xương đùi có thể đánh giá rõ ràng hơn tổn thương bong diện bám đùi của dây chằng chéo sau.

Tổn thương mạn tính của DCCS thường gây nên biểu hiện thoái hóa khớp chày đùi và khớp chè đùi. Trong giai đoạn đầu, tổn thương thoái hóa có thể kín đáo và khó đánh giá trên phim chụp XQ thường quy khớp gối thẳng và nghiêng, Một số tư thế XQ khớp gối được sử dụng để phát hiện thoái hóa khớp chày đùi và khớp chè đùi bao gồm:

Chụp XQ khớp gối thẳng từ sau ra trước có chịu tải hoặc tư thế Rosenberg có thể dễ dàng phát hiện hẹp khe khớp chè đùi trong ngay từ giai đoạn sớm mà trên phim chụp XQ khớp gối thẳng thường quy trước sau không phát hiện được.

 

Hình 2.8: Tư thế chụp X-quang khớp gối chịu tải (A) và hình ảnh hẹp khe khớp chày đùi trong trên phim (B)

Chụp XQ tiếp tuyến khớp chè đùi có thể phát hiện sớm dấu hiệu thoái hóa khớp chè đùi mà trên phim chụp XQ khớp gối nghiêng tiêu chuẩn chưa phát hiện được. Chụp XQ tiếp tuyến khớp chè đùi có nhiều cách chụp khác nhau nhưng tư thế chụp của Merchant và Laurin được sử dụng rộng rãi hơn cà vỉ những ưu điểm của nó.

Hình 3: Mô phỏng tư thể chụp XQ tiếp tuyến khớp chè đùi được mô tả bởi Settegast, Jacroschy và Knutsson 

Hình 4: Mô phỏng tư thể chụp XQ tiếp tuyến khớp chè đùi được mô tả hởi Settegast, Jacroschy và Knutsson 

Chụp chi dưới toàn bộ có chịu tải đánh giá lệch trục của chi dưới do tôn có thể được chi định cho những trường thương mạn tính cua DCCS gây nên. hợp tổn thương DCCS mạn tính nhằm đánh giá lệch trục chi dưới do tổn thương mạnh tính của DCCS gây nên.

2. Chụp X-quang lượng hoá di lệch của xương chày so với xương đùi

Chụp X-quang lượng hoá di lệch của xương chày theo Puddu

Năm 2000, Puddu và cs đã mô tả phương pháp chụp XQ khớp gối để lượng hoá sự di lệch của xương chày so với xương đùi cho những trường hợp bị tổn thương DCCS [9],

Kỹ thuật chụp: Bệnh nhân nằm ngứa, gối gấp 70 độ, bàn chân gấp gan trung bình, xương chày ở vị trí trung gian. Bệnh nhân giữ cassette ứ phía trên đùi, nguồn phát tia X đặt ở dưới chân người bệnh, phát tia X trực tiếp từ phần ngoại vi đến trung tâm chi thể, song song với trục của xương bánh chè. Khoảng cách từ nguồn chiếu đến cassette là Im. Kỹ thuật chụp giống với chụp tiếp tuyến khớp chè đùi ở tư thế gấp gối 70 độ nhưng với điện thể cao hơn (80 kV so với 70 kv), thời gian dài hơn (0,08 giây so với 0,05 giây) với cùng cường độ (1 OOmA).

Để đánh giá sự di lệch của xương chày so với xương đùi, kẻ đường thẳng tiếp tuyến với hai lồi cầu xương đùi. Từ vị trí chính giữa của rãnh liên lồi cầu xương đùi, kẻ đường thẳng vuông góc với đường thẳng là tiếp tuyến với hai lồi cầu xương đùi, kéo dài qua mâm chày. Đo khoảng cách của mâm chày và chính giữa rãnh liên lồi cầu đùi và so sánh hai bèn. Trong tổn thương dây chằng chéo sau, mâm chày càng di lệch ra sau thì khoảng cách này càng lớn. Sự khác biệt trên 3mm của bên tổn thương so với bcn lành có ý nghĩa chẩn đoán tổn thương dây chằng chéo sau.

Hình 5: Mô phỏng đánh giá sự di lệch của xương chày so với xương đùi theo Puddu và cs.

(A, A1: Vị trí để kẻ đường thẳng tiếp tuyến của lồi cầu ngoài và lồi cầu trong xương đùi; BC là khoảng cách cần đo và so sánh hai bên).

Hình 6: Hình ảnh XQ ở người bình thường (A) và ở người bệnh đứt dây chằng chéo sau

Năm 2001 Assal và cs áp dụng phương pháp chụp của Puddu để lượng hoá sự di lệch ra sau của xương chày so với xương đùi nhưng tập trung tìm hiểu tư thế lý tưởng của khớp gối cũng như chùm tia X đế phản ánh chính xác nhất sự di lệch của xương chày so với xương đùi đà đưa ra kết luận: nên chụp ở tư thế gấp gối 80 độ và chùm tia X hợp với trục của xương chày một góc khoảng 26 độ sẽ cho hình ảnh chất lượng tốt nhất để phát hiện tốt nhất sự di lệch của xương chày so với xương đùi trong tổn thương DCCS [101-

Chụp X-quang ngăn kéo sau lượng hoá

Nghiệm pháp ngăn kéo sau là nghiệm pháp thăm khám lâm sàng rất có giá trị trong chẩn đoán tổn thương DCCS khớp gối dựa trên cơ sở đánh giá sự di lệch ra sau của xương chày so với xương đùi do tổn thương DCCS gây nên. Tuy nhiên, lượng giá sự di lệch ra sau của mâm chày so với xương đùi khi thực hiện nghiệm pháp ngăn kéo sau có phần chủ quan và phụ thuộc vào kinh nghiệm của người thăm khám. Một số phương tiện đã được đưa vào sử dụng nhằm lượng hoá sự di lệch ra sau của xương chày so với xương đùi khi thăm khám nghiệm pháp ngăn kéo sau nhu thước KT 1000, thước KT 2000, thước Rolimeter, máy Genourob… Đe đánh giá chính xác sự di lệch ra sau của xương chày so với xương đùi, nhiều tác giả đã đề xuất chụp phim XQ khớp gối khi thực hiện nghiệm pháp ngăn kéo sau. Theo James và cs, đã có nhiều thông báo về lượng hoá sự di lệch ra sau của xương chày so với xương đùi với những kỹ thuật khác nhau nhưng phổ biến nhất có 2 phương pháp: chụp XQ ngăn kéo sau lượng hoá với tư thế quỳ gối và chụp XQ ngăn kéo sau lượng hoá với khung Tclos.

Chụp XQ ngăn kéo sau lượng hoá với tư thế quỳ gối:

Bệnh nhân gấp gối 90 độ, quỳ trên một tấm đệm hỗ trợ cẳng chân để quỳ trên lồi củ chày. Xương bánh chè và xương đùi được đề tự do. Tay bệnh nhân được đặt vào tay vịn kim loại để tạo tư thế thoải mái cho người bệnh. Màn tiếp nhận chùm tia X (cassette) được đặt ở giữa hai chân người bệnh. Tư thế người bệnh có thể xoay ngược lại để chụp XQ ngăn kéo sau lượng hoá cả hai gối mà không cần phải đổi vị trí của nguồn phát tia X cũng như cassette.

Hình 7: Tư thể chụp XQ ngăn kéo sau lượng hoá ở tư thế quỳ gối

Chụp XQ ngăn kẻo sau lượng hoá dùng khung Telos:

Chụp XQ ngăn kéo sau lượng hoá dùng khung Telos (Telos, Weterstad, Germany) được tiến hành với bệnh nhân nằm nghiêng về bên chân cần chụp, khớp gối gấp 90 độ, cẳng chân để ở tư thể trung gian và cố định bởi khung Telos như hình ảnh, Một lực ấn tương đương 15 kg được sử dụng để tác động vào đầu trên xương chày ờ vị trí lồi củ trước xương chày và duy trì lực ấn này trong quá trình chụp phim.

Hình 7: Tư thế chụp XQ ngăn kẻo sau lượng hoá với khung Telos

Lượng giá sự di lệch của xương chày so với xương đùi trên phim chụp XQ ngăn kéo sau lượng hoá như sau: Kẻ đường thẳng thử nhất nằm trên bề mặt của mâm chày song song với khe khớp gối. Xác định bờ sau nhất của lồi cầu đùi trong và lồi cầu đùi ngoài, từ điếm giữa hai bờ của lồi cầu đùi, kẻ đường thẳng vuông góc với đường thẳng thứ nhất. Tương tự, xác định bờ sau nhất của mâm chày trong và mâm chày ngoài, kẻ đường thẳng vuông góc với đường thẳng thứ nhất song song với bờ sau của thân xương chày. Sự di lệch ra sau của xương chày so với xương đùi được xác định bằng khoảng cách giữa hai đường vừa kẻ.

3. Siêu âm

Siêu âm, đặc biệt là với các máy siêu âm với độ phân giải cao, là một biện pháp thăm dò không xâm lấn rất có giá trị trong chẩn đoán các tổn thương nông hoặc các tổn thương của các cấu trúc xung quanh bề mặt của khớp gối như gân cơ tứ đầu đùi, gân cơ bánh chè, lớp mỡ Hoffa, các dây chằng chè đùi trong và ngoài cũng như cấu trúc cánh bên bánh chè, dây chằng bên trong, dây chằng bên ngoài và góc sau ngoài, kén hoạt dịch và các túi hoạt dịch quanh khớp gối. Do cấu tạo giải phẫu của dây chằng chéo nằm trong bao khớp nhưng nằm ngoài bao hoạt dịch và nằm sâu trong các cấu trúc xương của khớp gối nên siêu âm rất khó đánh giá tổn thương của các cấu trúc này. Friedl và Glaser và Ptasznik và cs tiến hành siêu âm đánh giá tổn thương của DCCT nhưng chỉ tập trung vào các dấu hiệu gián tiếp của tổn thương dây chằng như sự bán trật của mâm chày so với xương đùi, tụ máu tại điểm bám của dây chằng hơn là các dầu hiệu trực tiếp của tổn thương dây chằng . Suzuki và cs đánh giá các dấu hiệu tổn thương trực tiếp của DCCT dưới siêu âm trong tư thể duỗi gối quá mức nhưng cũng chỉ quan sát được một đoạn ngắn và ở những trường hợp mạn tính. Với DCCS, siêu âm khớp gối từ phía sau ở tư thế duỗi gối cho phép đánh giá tổn thương DCCS một cách khá chính xác với độ nhạy và độ đặc hiệu khá cao. Ngoài các dấu hiệu gián tiếp của tổn thương DCCS như sự bán trật ra sau của mâm chày so với xương đùi, tụ máu tại dây chằng, các dấu hiệu trực tiếp của tổn thương DCCS đã được ghi nhận bao gồm tăng kích thước của dây chằng hoặc mất liên tục cấu trúc của dây chằng so với gối bên lành. Độ nhạy và độ đặc hiệu của siêu âm trong phát hiện tổn thương DCCS được ghi nhận lần lượt khoảng 83% và 87,0% cao hơn rất nhiều so với độ nhạy và độ đặc hiệu của siêu âm trong phát hiện tổn thương DCCT.

 

Hình 8: Hình ảnh siêu âm DCCS gối phải có kích thước bình thường (A) và tăng kích thước ớ gối trái (B) tương úng với đứt DCCS trên phim CHT (C)

4. Chụp cắt lớp vi tính

Chụp cắt lớp vi tính (CLVT) với khả năng dựng hình 3D cho phép đánh giá sự toàn vẹn của cấu trúc xương khớp gối cũng như mối quan hệ giữa chúng, thường được sử dụng để đánh giá tổn thương diện bám của DCCS và của các dây chằng khác của khớp gối. Chụp CLVT rất có giá trị trong chẩn đoán tổn thương xương. Trong tổn thương của DCCS, chụp CLVT cho phép đánh giá chi tiết tổn thương bong diện bám DCCS.

Chụp CLVT có tiêm thuốc cản quang nội khớp gối còn cho phép đánh giá một cách gián tiếp tổn thương của DCCS cũng như DCCT và sụn chêm.

Với sự phát triển của chụp CHT kỹ thuật này đã không còn được chỉ định đổ-đánh giá tổn thương của dây chằng chéo khớp gối.

 

Hình 9: Chụp CLVT có tiêm thuốc cản quang nội khớp để đánh giá DCCT (mũi tên màu vàng) và DCCS (mũi tên màu xanh)

HeffeTeman E.J và cs đánh giá sự phù hợp của chụp CLVT 64 dây trong chẩn đoán đứt dây chằng chéo khớp gối ghi nhận: Độ nhạy của chụp CLVT trong chẩn đoán đứt DCCS rất thấp, khoảng từ 0 – 25% trong khi độ đặc hiệu của phương pháp này đạt 100%.

Hình 10: Hình ánh DCCS bình thường trên phim chụp CLVT 64 dãy (A) và hình ảnh DCCS tương ứng trên phim chụp CHT (B) biểu hiện tăng tin hiệu khu trù bền trong dây chằng do tổn thương bán phần đẩu trên DCCS 

5. Chụp cộng hưởng từ

Phương pháp chụp CHT được Bloch và Purcell phát hiện từ năm 1945 nhưng phải đến những năm 1976-1980 các tác giả Mansfeild, Damadian và Hankes mới ghi được những hình ảnh CHT đầu tiên trên người.

Đặc điểm giải phẫu của DCCS trên phim CHT

Cũng như DCCT, DCCS nằm trong bao khớp gối nhưng nằm ngoài bao hoạt dịch. DCCS to, chắc khỏe hơn DCCT và được bao phủ bởi màng hoạt dịch chặt hơn DCCT nên hình ảnh của DCCS trên phim chụp CHT thường rõ nét và đồng nhất hơn DCCT. Hình ảnh DCCS bình thường trên phim chụp CHT có hình cong mềm mại với bờ rõ và giảm tín hiệu đồng thời trên TI w và T2W. Rất khó có thể phân biệt được bó trước ngoài và bó sau trong của DCCS dựa vào các chuỗi xung cơ bản của phim chụp CHT [23], Hình ảnh bình thường của DCCS trên phim chụp CI-IT được so sánh với hình ảnh của chiếc gậy hockey trên mặt phẳng đứng dọc và hình ảnh của quả bóng hockey trên mặt phẳng đứng ngang, với đường kỉnh trước sau của DCCS không quá 6mm.

Hình 11: Hình ảnh DCCS bình thường trên phim CHT được so sánh với hình chiếc gậy hockey trên một phẳng đứng dọc và quà bỏng hockey trên mặt phẳng đứng ngang [25]

Hình ảnh tổn thương DCCS trên và độ đặc hiệu lên đến 100% trong phim CHT chẩn đoán đứt DCCS cấp tính.

Chụp CHT khớp gối rất có giá trị trong chẩn đoán đứt DCCS nói riêng chụp CHT có vai trò quan trọng và đứt dây chằng khớp gối nói chung. trong chẩn đoán tổn thương DCCS cả các trường hợp tổn thương DCCS đều có biểu hiện lâm sàng, ngay cả khi thăm khám bệnh nhân sau khi gây mê, và nội soi chẩn đoán tổn thương DCCS cùng không hề dễ dàng trong trường hợp bệnh nhân không bị tổn thương DCCT và dây chằng đùi sụn chêm kèm theo. Gross và cs cũng ghi nhận vai trò quan trọng của cộng hưởng từ trong chẩn đoán xác định tổn thương DCCS, làm tăng sự phù hợp giữa chắn đoán lâm sàng trước mổ với chân đoán sau mổ.

Tổn thương DCCS có thể là đứt dây chằng trong bao, đứt bán phần dây chằng hoặc đứt hoàn toàn dây chằng.

Đứt DCCS trong bao gây chảy máu hoặc phù nề bên trong cấu trúc dây chằng biểu hiện bằng hình ảnh tăng tín hiệu trên các chuỗi xung TR/ TE dài. Tín hiệu bất thường bên trong dây chằng biểu hiện bàng tăng tín hiệu không thuần nhất trên các chuỗi xung TR/TE dài nhưng bờ dây chằng vẫn còn rõ nét.

Đứt bán phần DCCS biểu hiện hình ảnh khác nhau tùy thuộc vào mức độ tổn thương, từ hình ảnh các khu vực tăng tín hiệu không đều bên trong dây chằng cho đến phá vỡ cấu trúc bình thường của dây chằng trên một đoạn và/ hoặc một bờ nào đó trên các chuỗi xung TR/ TE dài nhưng một số các bó sợi của dây chằng vẫn còn hình ảnh bình thường. Chúng có thể biểu hiện bằng hình ảnh một vòng tròn do chảy máu hoặc phù nề xung quanh bờ của DCCS nhưng cấu trúc bên trong của dây chằng vẫn có tín hiệu bình thường, có hình ảnh tối trên các chuỗi xung TR/ TE ngắn và sáng trên các chuỗi xung TR/ TE dài.

Đứt hoàn toàn DCCS được biểu hiện bằng mất liên tục hoàn toàn các bó sợi của dây chằng và tăng tín hiệu trên đường đi của nó. Mức độ tăng tín hiệu phụ thuộc vào thời gian từ khi bị chấn thương cho đến khi thăm khám CHT. Các dấu hiệu tổn thương trực tiếp của DCCS bao gồm:

  • Tăng kích thước của dây chằng (dây chằng dày lên): Rodriguez và

cs ghi nhận, trên mặt phẳng đứng dọc, hình ảnh CHT của DCCS có đường kính trước sau không quá 6mm. Dày bất thường đường kính trước sau của DCCS là dẩu hiệu trực tiếp của lổn thương DCCS. Ông nhận thấy tăng kích thirớc cua DCCS > 7mm là dấu hiệu có độ nhạy 94%, độ đặc hiệu 92% trong chẩn đoán tổn thương DCCS [24],

  • DCCS mất liên tục.
  • DCCS mất sức căng, có đường đi ngoằn ngoèo, gấp góc.
  • Các đường viền của dây chằng không đều, không còn rõ nét và khó định dạng.
  • Dây chằng tăng tín hiệu khu trú

hoặc lan tỏa: Dây chằng tăng tín hiệu khu trú hay lan tỏa trên phụ thuộc vào tổn thương của dây chằng và chảy máu xen kẽ giữa các bó sợi của dây chằng sau chấn thương. Dây chằng tăng tín hiệu trên cả TI w và T2W.

  • Không quan sát thấy hình ảnh dây chằng ở vị trí giải phẫu trên đường đi của nó: Trong trường hợp này cần phải hỏi kỹ thời gian từ khi bị chấn thương cho đến khi thăm khám CHT. Không quan sát thấy hình ảnh dây chằng là do dây chằng đứt và bị tiêu đi. Quan sát dây chằng trên phim CHT phái

đánh giá trên nhiều mặt phẳng khác nhau nhất là các lát cắt theo hướng đi của dây chằng.

Bong diện bám của DCCS: Bong diện bám của DCCS là dấu hiệu tổn thương dây chằng tại diện bám vào xương chày và xương đùi. 

Các dấu hiệu gián tiếp của tổn thương DCCS bao gồm:

  • Phù nề tủy xương: Phù nề tủy xương là dấu hiệu gián tiếp của tổn thương DCCS. Phù tủy xương có thể gặp có thế gặp ờ nửa trước của mâm chày do cơ chế chấn thương lực tác dụng trực tiếp vào đầu trên xương chày, hoặc phù nề tủy xương đối xứng ở trước dưới lồi cầu xương đùi và nửa trước của mâm chày gặp trong cơ chế tổn thương DCCS do duỗi gối quá mức.
  • Hình ảnh di lệch ra sau của đầu trên xương chày so với xương đùi: DCCS là yếu tố đầu tiên chống lại sự di lệch ra sau của xương chày so với xương đùi trong quá trình gấp duỗi gối. tổn thương DCCS dẫn đến sự di lệch bất thưởng của đầu trên xương chày so với xương đùi có thể quan sát thấy trên phim chụp CHT.

Độ nhạy và độ đặc hiệu của CHT trong chẩn đoán tổn thương cấp tính của DCCS rất cao, lên tới 100%. Ớ một bệnh nhân bị tổn thương DCCS không phải chỉ có một dấu hiệu tổn thương trực tiếp hay gián tiếp mà thường có nhiều dấu hiệu kết hợp. Đối với đứt DCCS mạn tính, hình ảnh dây chằng có thể không điển hình như trong đứt DCCS cấp tính nên độ nhạy của CHT trong chẩn đoán đứt DCCS trong giai đoạn mạn tính không cao như cấp tính. Chụp CHT cũng rất có giá trị trong chẩn đoán các tổn thương phối hợp bao gồm tổn thương sụn chêm, sụn khớp, DCCT, dây chằng bên, phù tủy xương… Kỹ thuật chụp CHT ra đời đã đánh dấu bước ngoặt trong chẩn đoán tổn thương phần mềm nói chung và dây chằng chéo khớp gối nói riêng.

6. Xạ hình xương 

Xạ hình xương rất  hữu ích trong đánh giá và điều trị tổn thương DCCS mạn tính. Ớ những bệnh nhân này, xạ hình xương cho phép phát hiện sớm tổn thương sụn khớp của khe khớp chày đùi trong và khe khớp chè đùi. Ở những bệnh nhân tổn thương DCCS đơn thuần mà trên phim chụp X-quang khớp gối bình thường, xạ hình xương rất có giá trị đc đánh giá tổn thương tổn thương sụn khớp của khoang chày đùi trong và khoang chè đùi. Nếu có tăng độ tập trung phóng xạ của những khoảng này, chỉ định phẫu thuật là cần thiết để cải thiện tình trạng đau ở người bệnh, nếu không có tăng độ tập trung phóng xạ ở những khoang này, tiếp tục điều trị bảo tồn và theo dõi định kỳ là một lựa chọn điều trị phù hợp.

7. Nội soi chẩn đoán

Nội soi chẩn đoán tổn thương DCCS đã không còn được sử dụng trong chẩn đoán đứt DCCS bởi sự ưu việt của CHT trong chẩn đoán tổn thương DCCS. Ngày nay nội soi khớp gối đánh giá tổn thương DCCS chỉ được thực hiện ớ những người bệnh có chỉ định nội soi can thiệp khớp gối hoặc trên những người bệnh không thể tiến hành chụp cộng hưởng từ khớp gối để chẩn đoán. Nội soi khớp giúp các bác sĩ có đánh giá trực quan, sinh động về mức độ tổn thương của DCCS cùng như các tổn thương nội khớp khác phối hợp đồng thời có thể tiến hành can thiệp sửa chữa các tổn thương trên. Không giong nhu DCCT, nội soi khớp gối từ những ngõ vào phía trước là không đủ để đánh giá tổn thương của DCCS bởi DCCS được che phủ bởi màng hoạt dịch và lớp mờ dưới hoạt dịch khá dày và một phần lớn DCCS bị che lấp phía trước bởi DCCT và diện bám chày của DCCS nằm thấp hơn cả diện khớp chày đùi. Bởi vậy trong chẩn đoán và điều trị tổn thương DCCS qua nội soi, việc sử dụng ngõ vào phía sau để quan sát khoang sau của khớp gối ià rất cần thiết. Một trong những nhầm lẫn hay gặp trong đánh giá tổn thương DCCS tà những trường hợp đứt DCCS nhưng dây chằng Đ-SC vẫn còn nguyên vẹn gây nhầm tưởng DCCS không bị đứt hoặc DCCT bị chùng làm cho nhầm tưởng là đứt DCCT nhưng thực tế là do tổn thương

DCCS làm cho mâm chày bị di lệch ra sau khiến cho DCCT bị chùng.

Trung tâm đang áp dụng các công nghệ hiện đại, tối tân vào việc chẩn đoán chính xác bệnh lý và đưa ra phương án phẫu thuật tốt nhất.

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.


Posted

in

by

Tags:

Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *