Chèn ép khoang là một hội chứng nặng trong cấp cứu chấn thường biểu hiện trạng thái gia tăng áp lực đột ngột trong một khoang cân-cơ- xương kín, gây chèn ép các vi mạch và đe dọa rối loạn tuần hoàn, ảnh hưởng chức năng cơ, thần kinh và hậu quả là thiếu máu chi ở phía hạ lưu.
Việc nhận định được thời điểm vàng để cấp cứu chèn ép khoang là cực kỳ quan trọng vì nếu bệnh không được chẩn đoán và điều trị kịp thời, thì có thể dẫn đến tổn thương thần kinh lâu dài và gây ra các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng hơn.
1.Phân loại hội chứng chèn ép khoang:
1.1 Hội chứng chèn ép khoang cấp tính
- Là một cấp cứu chấn thương.
- Nguyên nguyên chính là do chấn thương.
- Nếu không điều trị kịp thời có thể gây những tổn thương vĩnh viễn về sau.
1.2 Hội chứng chèn ép khoang mạn tính
- Không phải là một cấp cứu chấn thương.
- Nguyên nhân chính là do thường xuyên tập thể dục mạnh (ở chân người chạy bộ hoặc đạp xe, ở cánh tay người bơi lội). Triệu chứng sẽ giảm khi nghỉ ngơi.
- Ít khi phát triển thành tình huống đe dọa cấp tính.
2.Các giai đoạn của hội chứng chèn ép khoang:
2.1 Giai đoạn đe dọa:
Biểu hiện bằng triệu chứng lâm sàng duy nhất là ĐAU theo 3 cách:
- Đau tự nhiên, dữ đội, ngày càng tăng.
- Đau khi sờ lên mặt da cứng và căng bóng ở vùng khoang bị chèn ép.
- Đau khi kéo dài thụ động cơ nằm trong khoang bị chèn ép.
2.2 Giai đoạn rõ rệt:
Khi các dấu hiệu đau kể trên có kèm theo các dầu hiệu thần kinh, theo thời gian, lần lượt thấy:
- Cảm giác tê bì, kiến bò.
- Giảm cảm giác.
- Rối loạn vận động là dấu hiệu quá muộn của chèn ép khoang thường không có khả năng phục hồi.
3.Thời điểm vàng trong chèn ép khoang
3.1 Thời điểm vàng trong chèn ép khoang là gì ?
Thời điểm vàng trong cấp cứu chèn ép khoang là khoảng thời gian quan trọng từ khi bắt đầu có các triệu chứng đầu tiên đến khi bắt đầu được điều trị. Đây là thời gian cực kỳ quan trọng vì nếu bệnh không được chẩn đoán và điều trị kịp thời, thì có thể dẫn đến tổn thương thần kinh lâu dài và gây ra các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng hơn.
Việc chẩn đoán và điều trị kịp thời cũng giúp giảm tải chi phí và thời gian điều trị cho bệnh nhân. Điều này càng chứng tỏ tầm quan trọng của thời điểm vàng trong chèn ép khoang.
3.2 Các mốc thời gian trong cần lưu ý:
Thời gian chèn ép khoang được tính từ khi có dấu hiệu đầu tiên (đau tự nhiên) đến khi được khám phát hiện. Nếu nạn nhân không nói chính xác khi nào bắt đầu thấy đau, thì tính từ lúc bị chấn thương đến khi phát hiện ra biến chứng chèn ép khoang.
- Thời điểm 2 giờ-6 giờ sau khi xảy ra chấn thương: phát hiện chèn ép khoang
- Thời điểm chèn ép khoang 6 giờ được coi là trị số ngưỡng:
Nếu chèn ép khoang kéo dài < 6 giờ có nhiều hy vọng điều trị bảo tồn thành công.
Nếu chèn ép khoang kéo dài > 6 giờ có chỉ định phải làm phẫu thuật giải chèn ép (đáp ứng thần kinh trước kích thích điện giảm 25%: không phục hồi).
- Thời điểm nguy kịch của chèn ép khoang là khoảng 15-36 giờ sau chấn thương: khi đó áp lực trong khoang là ở mức cao tối đa.
3.3 Phương pháp điều trị chèn ép khoang ở các thời điểm vàng.
3.3.1 Trong giai đoạn đe dọa chèn ép khoang và thời điểm < 6 giờ
Điều trị bảo tồn, bao gồm:
- Tháo bỏ các nguyên nhân gây chèn ép ở bên ngoài (băng, bột chặt, cắt bỏ chì khâu kín da và cân mạc..v.v).
- Dùng thuốc giảm đau, phong bế gốc chi bằng dung dịch Novocaine 0,25%.
- Theo dõi diễn biến chèn ép khoang từng giờ.
3.3.2 Thời điểm từ 6 giờ đến 15 giờ
- Phải phẫu thuật tức thì: rạch rộng da và cân mạc để giải chèn ép.
- Sau đó phải cắt lọc các mô chết (đồng thời hoặc thì hai) để chống nhiễm trùng.
3.3.3 Thời điểm > 15 giờ
- Cần cân nhắc giữa phẫu thuật giải chèn ép và phẫu thuật đoạn chi.
- Đôi khi phẫu thuật giải chèn ép gây nên trụy tim mạch kéo dài hay suy thận vô niệu phải đoạn chi sớm để cứu sống nạn nhân.
Dù điều trị chèn ép khoang trong giai đoạn nào cũng phải điều trị choáng chấn thương sớm và có hiệu quả.
4. Tổng kết
Các dấu hiệu lâm sàng và các mốc thời gian chèn ép khoang nói trên đủ để chẩn đoán hầu hết các trường hợp CEK và chọn phương pháp điều trị thích hợp. Một số ít trường hợp không thể khai thác được các dấu hiệu trên (nạn nhân hôn mê, trẻ em) cần phải đo áp lực trong khoang. Nếu áp lực trong khoang < 30 mmHg các tổn thương còn có thể tự hồi phục.. Vượt quá trị số đó một phần cơ bị hoại tử. Áp lực trong khoang 30 mmHg được coi là ngưỡng giữa điều trị bảo tồn và phẫu thuật giải áp.
-
Một khi quá trình diễn biến hội chứng khoang bị kích hoạt, hội chứng khoang có xu hướng nghiêm trọng.
-
Nghĩ đến hội chứng khoang nếu có đau quá mức thương tổn, đau tăng khi vận động thụ động và sờ khoang thấy căng chắc.
-
Đo áp lực khoang để khẳng định chẩn đoán; dấu hiệu áp lực trên 30mmHg hoặc tiếp cận ngưỡng dưới 30mmHg của huyết áp tâm thu là chắc chắn.
-
Trừ khi các triệu chứng giảm nhanh sau điều trị ban đâu, cần mở cân sớm nhất có thể.
Leave a Reply