Hội chứng tim thận xảy ra khi các bệnh lý về tim và thận gây ra tổn thương cho cả hai cơ quan. Các bệnh lý về tim bao gồm bệnh van tim, bệnh lý mạch vành và suy tim, trong khi các bệnh lý về thận bao gồm bệnh thận đái tháo đường, bệnh thận màng và suy thận.
1. Tổng quan
Hội chứng tim thận (Cadiorenal syndrome – CRS) là một tình trạng bệnh lý phức tạp liên quan đến sự tương tác giữa chức năng tim và thận. CRS được xác định là một sự suy giảm chức năng của cả tim và thận, và sự suy giảm cấp tính hoặc mạn tính của một cơ quan dẫn đến sự suy giảm cấp tính hoặc mạn tính của cơ quan kia.
CRS được chia thành 5 loại khác nhau, tùy thuộc vào nguyên nhân gây ra bệnh lý
- Type 1: Tổn thương thận cấp do bệnh lý tim cấp.
- Type 2: Bệnh thận mạn do bệnh lý tim mạn.
- Type 3: Bệnh tim cấp tính do tổn thương thận cấp.
- Type 4: Bệnh tim mạn tính do bệnh thận mạn.
- Type 5: Bao gồm sự suy giảm chức năng của tim và thận do các rối loạn hệ thống cấp tính hoặc mạn tính khác (như nhiễm trùng huyết)
2. Cơ chế của hội chứng tim thận.
Trong các thận có từ 500.000 đến 1 triệu vi cầu thận. Độ lọc cầu thận tùy thuộc vào hoạt động của búi mao mạch hiện diện trong các vi cầu thận này. Do đó giảm độ lọc cầu thận phản ánh rối loạn tuần hoàn ở mức vi mạch. Sự hiện diện albumin trong nước tiểu cũng phản ánh rối loạn tuần hoàn ở mức vi mạch cũng như rối loạn chức năng nội mô mạch máu. Đây là một trong những cơ sở giải thích sự tương tác bệnh lý tim-thận.
Sự tăng hoạt tính hệ renin-angiotensin cũng là một cơ chế quan trọng trong tương tác tim-thận. Sự tăng hoạt tính hệ renin-angiotensin một mặt là hệ quả của rối loạn chức năng tim, mặt khác lại có ảnh hưởng bất lợi đối với cả hệ tim mạch lẫn thận : gây rối loạn chức năng nội mô mạch máu, phì đại tim và thành mạch, tái định dạng mạch máu, rối loạn huyết động trong cầu thận, xơ hóa và mất nephron trong thận.
Nhiều nghiên cứu cho thấy ở người bệnh thận mạn, nhất là người có giảm độ lọc cầu thận, có sự tăng stress oxy hóa, sự hiện diện của hiện tượng viêm (biểu hiện là tăng CRP), sự tích tụ phosphate dẫn đến vôi hóa lớp trung mạc động mạch, hiện tượng thiếu máu mạn và phì đại thất trái. Tất cả các yếu tố này đều làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch.
3. Điều trị
Điều trị hội chứng tim thận (CRS) phụ thuộc vào nguyên nhân gây ra bệnh lý và được cá nhân hóa cho từng bệnh nhân. Tuy nhiên, giải pháp chính của điều trị CRS là giải quyết sự suy giảm chức năng của tim hoặc thận gốc. Sau đây là một số phương pháp điều trị thường được sử dụng:
3.1. Sử dụng thuốc.
Hệ renin-angiotensin đóng vai trò quan trọng trong bệnh sinh các tổn thương của hệ tim mạch và thận, do đó có một câu hỏi được nhiều nhà nghiên cứu đặt ra là liệu ức chế hệ này có mang lại một lợi ích thêm vào lợi ích của việc hạ huyết áp hay không.
Nghiên cứu HOPE (Heart Outcomes Prevention Evaluation) cung cấp chứng cứ thuyết phục về hiệu quả bảo vệ tim mạch độc lập với tác dụng hạ huyết áp của liệu pháp ức chế men chuyển ở người đã có hoặc có nguy cơ cao mắc bệnh tim mạch do xơ vữa động mạch.
Một phân tích hồi cứu về nghiên cứu Study of Left Ventricular Dysfunction (SOLVD) cho thấy những bệnh nhân bị HF và CKD trong nhóm Enalapril có lợi ích về tỷ lệ tử vong cao hơn ngay cả với các giai đoạn tiến triển của CKD.
Một nghiên cứu của Ahmed và cộng sự theo dõi 1165 bệnh nhân ≥ 65 tuổi, bị suy tim tâm thu (phân suất tống máu < 45%) và bệnh thận mạn (eGFR < 60 mL/phút trên 1,73 m2) trong đó 1046 bệnh nhân được dùng thuốc ức chế men chuyển hoặc ARB trong 8 năm. Kết quả cho thấy những bệnh nhân dùng thuốc ức chế men chuyển hoặc ARB đã giảm đáng kể tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân và nhập viện do suy tim.
Do đó, bệnh nhân mắc CRS nên được bắt đầu với liều thấp nhất của thuốc ức chế men chuyển và liều lượng được điều chỉnh cẩn thận. Nên tránh sử dụng đồng thời NSAID để ngăn chặn sự suy giảm thêm chức năng thận. Nên tiếp tục điều trị bằng thuốc ức chế men chuyển hoặc ARB ở những bệnh nhân mắc CRS trừ khi có sự tiến triển của rối loạn chức năng thận nặng và tăng kali máu. Sử dụng chất ức chế men chuyển hóa angiotensin (ACEi), chất đối vận receptor angiotensin II (ARB) và chất ức chế renin để giảm huyết áp và giảm tải công của tim.
Thuốc lợi tiểu như furosemide và spironolactone cũng được sử dụng để giảm độ dày của dịch cơ thể và giảm tỷ lệ biến cố bất lợi hơn các phương pháp hỗ trợ khác như siêu lọc.
3.2. Thay đổi chế độ ăn uống và lối sống: Bệnh nhân cần tuân thủ chế độ ăn uống và lối sống lành mạnh để giảm tác động của bệnh lý đến sức khỏe tổng thể. Điều này bao gồm giảm lượng muối và chất béo, tăng lượng trái cây và rau xanh, và giảm cân nếu bệnh nhân bị thừa cân hoặc béo phì.
3.3. Điều trị thay thế: Nếu bệnh nhân có các biến chứng nghiêm trọng, như suy tim, suy thận hoặc tăng huyết áp nặng, các biện pháp điều trị thay thế như lọc máu hoặc thẩm phân phúc mạc có thể được sử dụng để loại bỏ chất thải khỏi cơ thể.
Trong tất cả các trường hợp, bệnh nhân cần được theo dõi chặt chẽ và điều chỉnh liều lượng thuốc và phương pháp điều trị để đảm bảo hiệu quả và giảm thiểu tác dụng phụ.
Hội chứng tim thận là một bệnh lý phức tạp và nguy hiểm, đặc biệt đối với các bệnh nhân có sự suy giảm chức năng tim hoặc thận. Điều quan trọng là phát hiện và điều trị kịp thời để giảm thiểu tác động tiêu cực đến sức khỏe tổng thể của bệnh nhân. Việc áp dụng các phương pháp điều trị phù hợp, bao gồm kiểm soát huyết áp, thay đổi lối sống có thể giúp cải thiện chức năng tim và thận và cải thiện chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân. Tuy nhiên, việc theo dõi chặt chẽ và điều chỉnh liệu trình điều trị là cần thiết để đảm bảo hiệu quả và giảm thiểu tác dụng phụ.
Vì vậy, tìm hiểu về hội chứng tim thận và hỗ trợ bệnh nhân trong quá trình điều trị là vô cùng quan trọng để đảm bảo sức khỏe và chất lượng cuộc sống tốt hơn.
Leave a Reply