Thuốc chẹn Beta (Beta-blockers) ngày nay được sử dụng rộng rãi trong điều trị đau thắt ngực, một số loại rối loạn nhịp nhanh và suy tim, cũng như trong tăng huyết áp. Beta-blockers đối kháng với tác dụng của kích thích thần kinh giao cảm hoặc catecholamin trong tuần hoàn tại các beta-adrenoceptor phân bố rộng khắp trong các hệ thống cơ thể. Beta1-receptor chiếm ưu thế trong tim (và thận) trong khi beta2-receptor chiếm ưu thế trong các cơ quan khác như phổi, mạch máu ngoại vi và cơ bắp xương.
1. Đại cương về thuốc chẹn beta
Cơ chế hoạt động
- Tim: Ức chế beta1-receptor tại nút xoang nhĩ giảm nhịp tim và chặn beta1-receptor trong cơ tim giảm sức co của tim dẫn đến giảm cung lượng tim.
- Thận: Ức chế beta1-receptor ức chế sự giải phóng renin và giảm hoạt động của hệ thống renin-angiotensin-aldosteron. Dẫn đến giảm huyết áp.
- Hệ thống thần kinh trung ương và ngoại vi: Chặn beta-receptor trong thân não và beta-receptor trước khe giao thoa dẫn đến ức chế sự giải phóng các chất dẫn truyền thần kinh và giảm hoạt động của hệ thống thần kinh giao cảm.
- Tác dụng hạ huyết áp của chẹn beta vẫn còn tranh cãi. Người ta cho rằng tác dụng chống tăng huyết áp của beta-blockers được cho là do tác dụng lên tim (giảm nhịp tim và cung lượng tim). Tuy nhiên, sự giảm áp huyết kéo dài hơn ở những người có dạng tăng huyết áp có nồng độ renin cao, cho thấy tác dụng lên thận của chẹn beta là rất quan trọng.
Những beta-blockers có tính chất khác nhau có thể quyết định tính hữu ích trong những người tăng huyết áp hay bệnh tim mạch. - Tính chọn lọc (chọn lọc beta 1): Vì tác dụng mong muốn khi sử dụng beta-blockers là chẹn beta1-receptor trên tim, các chất “chọn lọc” với độ chọn lọc tương đối cho receptor này thường được ưu tiên.
- Tính hoạt hóa giao cảm nội tại (ISA – intrinsic sympathomimetic activity) là tác dụng đồng vận 1 phần trên receptor giao cảm khi cơ thể có ít chất đồng vận toàn phần (thường là Noradrenalin, tiết ít lúc ngủ), và trở thành đối vận khi có sự hiện diện nhiều Noradrenaline (lúc hoạt động giao cảm cao, gắng sức).
- Các tính chất khác: Một số beta-blockers cũng chặn tác dụng được trung gian bởi các alpha-adrenoceptor ngoại vi (ví dụ carvedilol và labetalol), kích thích beta2-adrenoceptor (ví dụ celiprolol) hoặc có hoạt tính giãn mạch trực tiếp (ví dụ nebivolol).
Thời gian bán thải
Các Beta-blockers khác nhau về thời gian bán thải qua thận hoặc gan. Các beta-blockers tan trong mỡ, ví dụ như labetalol, metoprolol, pindolol và propranolol, thường phụ thuộc vào sự trao đổi chất tại gan để thanh lọc và thải ra khỏi cơ thể, trong khi các beta-blockers tan trong nước, ví dụ như atenolol, được thải ra khỏi cơ thể qua thận. Thời gian bán thải của hầu hết các beta-blockers tương đối ngắn; những loại được thải qua thận có xu hướng có thời gian bán thải dài hơn.
2. Các vấn đề khi sử dụng chẹn beta
Tác dụng phụ
- Co thắt phế quản do chẹn beta2-receptor, đóng vai trò giãn nở ở phế quản. Hen suyễn là một chống chỉ định tuyệt đối đối với tất cả các beta-blockers.
- Nhịp tim chậm và suy giảm khả năng co bóp của cơ tim. Thường gặp nhưng hiếm khi có triệu chứng. Cần theo dõi sát nhịp tim của bệnh nhân.
- Hạ huyết áp quá mức.
- Tăng huyết áp ngoại vi do chặn beta2-receptor, đóng vai trò giãn nở trong các mạch máu cung cấp cho các giường cơ bắp xương, thường dẫn đến tình trạng tay và chân lạnh, và có thể làm tăng tình trạng hội chứng Raynaud.
- Mệt mỏi và mệt do chặn beta2-receptor trong cơ bắp xương liên quan đến tăng hoạt động cơ.
- Che giấu triệu chứng hạ đường huyết trong bệnh tiểu đường phụ thuộc vào insulin do giảm hoạt động thần kinh giao cảm.
2. Phân loại và một số chú trên lâm sàng
Các loại thuốc chẹn beta không đặc hiệu, ví dụ như propranolol, chặn beta1 và beta2-adrenoceptors một cách đều.
Các loại thuốc chẹn beta chọn lọc, ví dụ như atenolol, bisoprolol và metoprolol, có độ liên kết với beta1-adrenoceptors cao hơn và ít gây co thắt đường hô hấp hoặc mạch máu ngoại vi, do đó được ưu tiên trong điều trị cho bệnh nhân mắc bệnh hô hấp như hen suyễn. Bisoprolol được báo cáo có tính chọn lọc cho tim mạch cao hơn so với metoprolol và atenolol.
Thuốc chẹn beta giãn mạch, ví dụ như carvedilol, giảm sức kháng ngoại vi bằng cách kết hợp với alpha-adrenoceptors, gây giãn mạch mà không ảnh hưởng đến lượng máu bơm ra từ tim. Điều này được cho là ưu tiên trong điều trị cho bệnh nhân mắc bệnh kháng insulin, tuy nhiên, chứng cứ mạnh về lợi ích của thuốc này vẫn còn thiếu. Ngoài khả năng chặn alpha1, carvedilol cũng kết hợp không đặc hiệu với beta1 và beta2-adrenoceptors. Celiprolol và pindolol có hoạt tính cảm thụ thần kinh nội bào (ISA), do đó đồng thời chặn và kích thích beta-adrenoceptors, gây ra ít tình trạng nhịp tim chậm và co thắt mạch máu ngoại vi. Điều này có thể mong muốn trong điều trị cho bệnh nhân mắc bệnh động mạch ngoại vi nhưng ít có lợi cho bệnh nhân mắc bệnh suy tim hoặc đau thắt ngực.
Thuốc chẹn beta hiện tại có 3 thế hệ:
Thế hệ 1 bao gồm các thuốc : propranolol, timolol, nadolol…
Thế hệ 2 bao gồm các thuốc: atenolol, bisoprolol, metoprolol
Thế hệ 3bao gồm các thuốc: carvedilol, labetalol, nebivolol.
Ngoài việc sử dụng trong tăng huyết áp, beta-blockers được sử dụng để điều trị nhịp tim nhanh trên thất, đau thắt ngực, sau nhồi máu cơ tim, suy tim, rối loạn lo âu, bệnh tuyến giáp và chứng đau nửa đầu.
Ở tất cả bệnh nhân suy tim có phân suất tống máu giảm (HFREF), chẹn beta nên được khởi động cùng với với ức chế men chuyển angiotensin (ACE inhibitor) sau khi đã sử dụng thuốc lợi tiểu để giảm bớt quá tải dịch trên bệnh nhân. Bisoprolol, carvedilol hoặc metoprolol succinate thường được chỉ định cho bệnh nhân suy tim. Thực tế, carvedilol thường được sử dụng đầu tiên nếu suy tim đi kèm với rối loạn nhịp tim, tiếp đó là bisoprolol hoặc metoprolol succinate. Bất kỳ lựa chọn nào trong ba loại thuốc này cũng phù hợp nếu suy tim đi kèm với bệnh mạch vành. Bệnh nhân suy tim có phân suất tống máu bảo tồn (HF-PEF) cũng có thể được chỉ định sử dụng beta-blocker nếu họ có các bệnh lý đồng mắc trên tim mạch khác như rối loạn nhịp tim hay tăng huyết áp.
Tăng huyết áp
Đối với bệnh nhân tăng huyết áp đơn thuần, beta-blocker thường là lựa chọn thứ tư, vì chất ức chế men chuyển angiotensin (ACE), kháng thụ thể angiotensin II (ARB), thuốc lợi tiểu hoặc chất ức chế kênh canxi có kết quả tốt hơn.
Beta-blocker có thể hiệu quả hơn ở bệnh nhân trẻ có tăng huyết áp so với bệnh nhân lớn tuổi. . Không có bằng chứng cho thấy một loại beta-blocker nào là ưu việt hơn loại khác để điều trị huyết áp.
Tài liệu tham khảo:
Leave a Reply