Tổng quan các xét nghiệm chẩn đoán Giang mai

Rất nhiều kỹ thuật xét nghiệm chẩn đoán giang mai đã được triển khai. Có thể xếp chúng thành bốn loại: (1) soi trực tiếp dưới kính hiển vi khi có sang thương hiện diện, (2) phản ứng huyết thanh không chuyên biệt dùng để tầm soát bệnh, (3) phản ứng huyết thanh chuyên biệt dùng để khẳng định bệnh, và (4) phát hiện kháng nguyên trực tiếp dùng trong nghiên cứu và dùng làm tiêu chuẩn vàng để đánh giá xét nghiệm.

1. Chẩn đoán Giang mai bằng kỹ thuật hiển vi trực tiếp:

Với sự hiện diện của tổn thương, việc phát hiện xoắn khuẩn trực tiếp là cách chẩn đoán giang mai dễ dàng và đặc hiệu nhất nếu ta có thể loại trừ tình trạng nhiễm  Treponema khác. Tuy nhiên, kết quả âm tính chưa thể loại trừ bệnh giang mai.

1.1. Kính hiển vi nền đen:

Bệnh phẩm là thanh dịch không có hồng cầu và mảnh vụn mô, lấy ở tổn thương săng, u lồi giang mai, mảng nhày, hoặc cổ tử cung và âm đạo chứa rất nhiều vi khuẩn T. pallidum. Cũng có thể lấy chất dịch hút từ hạch lymphô sưng gần tổn thương. Quan sát bệnh phẩm tức thì sau khi lấy. Dưới kính hiển vi nền đen T. pallidum là những xoắn khuẩn mảnh, vòng xoắn lượn khít, chắc và đồng dạng, nó di chuyển giống như mũi khoan bằng cách xoay quanh trục dọc.

Dùng kính hiển vi nền đen có thể chẩn đoán được giang mai sơ kỳ, kỳ II, giai đoạn tái phát và giang mai bẩm sinh.

minh-hoa-xet-nghiem-giang-mai
Vi khuẩn giang mai

1.2. Kỹ thuật kháng thể huỳnh quang trực tiếp:

Dùng kháng thể đặc hiệu cộng hợp huỳnh quang phát hiện T. pallidum trong chất bài tiết, chất tiết từ tổn thương, trong mô và dịch cơ thể, trong vết loét ở miệng và ruột. Kỹ thuật này được dùng chẩn đoán giang mai kỳ II, giang mai muộn, giang mai bẩm sinh.

2. Huyết thanh học chẩn đoán giang mai:

Là phản ứng được dùng chủ yếu với huyết thanh bệnh nhân, dù vậy một ít sản phẩm thương mại có thể sử dụng huyết tương.

2.1. Phản ứng không chuyên biệt:

Phát hiện kháng thể IgM và IgG bằng kháng nguyên có thể là chất liệu lipoid từ tế bào bị tổn thương của ký chủ hoặc chất liệu lipoprotein hoặc cardiolipin của Treponema hay cardiolipin trích từ tim bò. Kháng thể xuất hiện khoảng một tuần sau săng giang mai nhưng không đặc hiệu vì còn có ở một số bệnh khác như lupus, phong, sởi,… Những kỹ thuật thông dụng xét nghiệm bệnh là phản ứng lên bông VDRL (Venereal Disease Research Laboratory), phản ứng ngưng kết latex RPR (Rapid Plasma Reagin). Kỹ thuật miễn dịch gắn men ELISA (Enzyme-Linked ImmunoSorbent Assay) không đặc hiệu cũng được triển khai dựa trên căn bản VDRL gắn men.

Ba vấn đề chủ yếu của phản ứng không chuyên biệt là hiện tượng tiền vùng, phản ứng dương giả và bình giải kết quả. Hiện tượng tiền vùng xảy ra ở chừng 2% bệnh nhân giang mai II. Đó là do không có kinh nghiệm với huyết thanh có hạt nên kỹ thuật viên đọc sai kết quả hoặc lúc thực hiện phản ứng lại nhỏ kháng nguyên vào huyết thanh trước khi trải huyết thanh vào ô. Ngoài ra kết quả âm giả cũng xảy ra ở giang mai giai đoạn sớm, giang mai muộn và giang mai tiềm ẩn.

Phản ứng dương giả phụ thuộc vào thử nghiệm và quần thể khảo sát. Khoảng 10% người chích ma túy cho phản ứng giang mai dương giả. Phản ứng dương giả tồn tại dưới 6 tháng liên hệ với viêm gan, bệnh bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng, viêm phổi do virus, thủy đậu, sởi, nhiễm virus khác, sốt rét, chủng ngừa, có thai, hoặc do lỗi kỹ thuật. Phản ứng dương giả mạn tính liên quan các bệnh mô liên kết hay bệnh immunoglobulin bất thường.

Bình giải kết quả test không chuyên biệt phụ thuộc vào quần thể khảo sát và giai đoạn bệnh. Phản ứng dương hay dương yếu có thể xảy ra trong mọi thời kỳ bệnh. Tuy nhiên kết quả âm tính có thể xảy ra trong thời gian ủ bệnh. Khi xét nghiệm tầm soát bệnh trong quần thể nguy cơ thấp cho kết quả dương tính thì phải được khẳng định bằng thử nghiệm chuyên biệt.

Một căn nguyên chính gây lầm lẫn khi sử dụng thử nghiệm không chuyên biệt là nhiệt độ phòng xét nghiệm quá nóng (> 29oC) hay quá lạnh (< 23oC). Ngoài ra còn do bản chất sản phẩm, thời gian và vận tốc ly tâm.

Bảng so sánh độ nhạy và độ đặc hiệu của những thử nghiệm không chuyên biệt

(kháng nguyên không phải là T. pallidum)

Độ nhạy (%) % đặc hiệu
Thử nghiệm Kỳ I Kỳ II Tiềm ẩn Muộn
VDRL 74-87 100 88-100 37-94 96-99
RPR 77-100 100 95-100 73 93-99
ELISA 90 100 100 97

2.2. Phản ứng huyết thanh chuyên biệt

Về mặt kỹ thuật thì phức tạp hơn và đắt tiền hơn phản ứng không chuyên biệt nên không dùng để sàng lọc giang mai. Phản ứng chuyên biệt dùng khẳng định dương tính của phản ứng không chuyên biệt, hoặc để xác định triệu chứng lâm sàng mà kết quả test không chuyên biệt âm tính. Khoảng 1% dân số cho kết quả dương tính giả với phản ứng chuyên biệt. Phản ứng chuyên biệt không thể dùng theo dõi trị liệu giang mai.

Phản ứng huyết thanh chuyên biệt sử dụng những sản phẩm dùng T. pallidum hay thành phần của nó làm kháng nguyên, gồm phản ứng TPI, FTA-ABS, TPHA, kỹ thuật miễn dịch thấm (immunoblotting).

TPI dùng dòng Nichols cấy trên dịch hoàn thỏ làm kháng nguyên, sự hiện diện của bổ thể và kháng thể đặc hiệu trong huyết thanh bệnh nhân sẽ làm bất động các xoắn khuẩn sống. Hiện tượng này nhìn thấy được dưới kính hiển vi nền đen. Nhược điểm thử nghiệm TPI là phản ứng khá phức tạp về kỹ thuật, tốn thời gian và đắt tiền.

FTA-ABS là kỹ thuật kháng thể hùynh quang gián tiếp sử dụng dòng Nichols làm kháng nguyên. Huyết thanh bệnh nhân được loại bỏ kháng thể không đặc hiệu rồi phủ lên kháng nguyên. Kháng thể đặc hiệu sẽ bao lấy xoắn khuẩn. Cộng hợp (conjugate) gồm kháng thể anti-Immunoglobulin người đã đánh dấu huỳnh quang được thêm vào, gắn với phức hợp kháng thể bệnh nhân và xoắn khuẩn. Kết quả là xoắn khuẩn phát sáng dưới kính hiển vi huỳnh quang. Kỹ thuật này có nhược điểm là nhiều thành phần phản ứng, đòi hỏi kiểm tra chứng nhiều mức độ, cộng hợp phải được chuẩn độ và kính hiển vi phải dùng màng lọc thích hợp.

Thử nghiệm ngưng kết hồng cầu (TPHA) dùng kháng nguyên là xoắn khuẩn dòng Nichols gắn lên hồng cầu cừu. Kháng thể đặc hiệu trong huyết thanh bệnh nhân cho vào sẽ làm ngưng kết hồng cầu. Phản ứng này đơn giản, rẻ tiền hơn và ít phản ứng dương giả hơn FTA-ABS.  Ngày nay đã có phản ứng TPHA tự động, được nhận định là đặc hiệu ít nhất gấp đôi test RPR.

Ngoài ra, kỹ thuật ELISA cũng được vận dụng với kháng nguyên đặc hiệu là những protein màng của T. pallidum. Hoặc trong kỹ thuật thấm miễn dịch, protein kháng nguyên từ xoắn khuẩn được điện di ly trích và chuyển sang màng nitrocellulose để tạo nên bản thấm kháng nguyên đặc hiệu.

Phản ứng huyết thanh chuyên biệt có thể cho kết quả dương giả (< 1%) với những trạng thái như lupus ban đỏ hệ thống, lupus do thuốc, bệnh phong, tuổi già, người nghiện. Ngoài ra, khoảng 85% người bệnh giang mai đã điều trị thành công còn cho kết quả dương tính với các phản ứng chuyên biệt nhiều năm về sau.

3. Các kỹ thuật chẩn đoán Giang mai khác:

Tiêm bệnh phẩm vào động vật thực nghiệm, dùng đoạn dò DNA, sử dụng kỹ thuật PCR,…

Nguồn: PGS.TS Võ Thị Chi Mai

Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec có cung cấp Gói Khám, Sàng lọc các bệnh xã hội giúp cho khách hàng có thể phát hiện sớm các bệnh lý và có hướng điều trị hiệu quả, ngăn ngừa biến chứng nguy hiểm. Gói khám sàng lọc các bệnh xã hội tại Vinmec dành cho mọi lứa tuổi, cả nam giới và nữ giới.


Posted

in

,

by

Tags:

Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *