Sự sắp xếp cung răng theo bình diện đứng trong Chỉnh nha.

Trên cung hàm, các răng được sắp xếp sao cho tối đa hóa lực nhai và bảo vệ vị trí của chúng. Để đạt được hiệu quả nhai tốt nhất và giảm thiểu sự mài mòn, các răng được xếp theo hướng trục răng song song với hướng lực nhai và mặt nhai vuông góc với hướng lực nhai trong ba chiều không gian. Ngoài ra, hệ thống thần kinh cơ phản hồi để điều chỉnh hoạt động nhai. Hệ thống này chỉ kích hoạt các cơ cần thiết cho từng loại hoạt động nhai, đáp ứng nhu cầu thực hiện chức năng nhai của cơ thể một cách hiệu quả và đồng thời giúp tối ưu hóa lực nhai và tự bảo vệ cho các răng. Cùng tìm hiểu về sự sắp xếp các răng theo bình diện đứng trong quá trình điều trị chỉnh nha lâm sàng trên bệnh nhân.

1. Tổng quan về sự sắp xếp răng theo bình diện đứng (vertical alignment)

Các răng được sắp xếp trên cung hàm với mục đích tối đa hóa lực nhai và đảm bảo vị trí của chúng. Các răng được xếp theo hướng trục răng song song với hướng lực nhai và mặt nhai vuông góc với hướng lực nhai trong ba chiều không gian để giảm thiểu sự mài mòn và tối ưu hóa hiệu suất nhai. Hệ thống thần kinh cơ phản hồi để điều chỉnh hoạt động nhai, với số lượng cơ kích hoạt chỉ vừa đủ cho từng loại hoạt động nhai. Các thụ thể nhận cảm áp lực trong mô nha chu chịu trách nhiệm phản hồi nhu cầu này. Ví dụ, trong hoạt động cắt thức ăn ở răng trước, số lượng cơ nhai hoạt động cần ít hơn so với hoạt động nghiền thức ăn ở răng cối.

Để đảm bảo các răng sau không bị kích thích trong hoạt động cắt thức ăn ở răng trước, các răng sau phải ở trạng thái không tiếp xúc. Hiện tượng này gọi là nhả khớp (disocclusion) – cơ chế bảo vệ của hệ thống nhai. Có hai hiện tượng nhả khớp trong hoạt động nhai: nhả khớp ra trước và nhả khớp sang bên. Nhả khớp ra trước xảy ra khi cắn vùng răng trước, còn nhả khớp sang bên xảy ra khi hàm đưa sang bên để nhai. Phía không thực hiện chức năng sẽ không tiếp xúc, gọi là nhả khớp sang bên.

Đặc điểm hình thái của cung hàm đảm bảo cho chức năng nhai hiệu quả, ổn định vị trí răng và tự bảo vệ. Các đường cong cắn khớp và tư thế trục răng được sử dụng để thể hiện đặc điểm này. Đường cong cắn khớp theo chiều trước sau là đường cong Spee và đường cong cắn khớp theo chiều ngang là đường cong Wilson.

2. Đường cong Spee

Đường cong Spee do Spee mô tả năm 1890, với đặc điểm là đường cong lõm nhẹ lên trên khi nối đỉnh răng nanh với đỉnh múi ngoài các răng cối nhỏ và răng cối lớn hàm dưới (Hình 1). Đường cong Spee khi kéo dài sẽ đi qua tâm lồi cầu (Hình 2).

su-sap-xep-1
Hình 1: Đường cong Spee.
su-sap-xep-2
Hình 2: Đường cong Spee kéo dài đi qua tâm lồi cầu.

Đường cong Spee lý tưởng đảm bảo hướng trục răng song song với hướng lực cơ nhai theo chiều trước sau và các răng sau nhả khớp khi thực hiện chức năng nhai ở răng trước (Hình 3).

su-sap-xep-3
Hình 3: Đường cong Spee với tương quan trục răng (A) và tư thế nhả khớp ra trước (B).

Độ sâu của đường cong Spee được đo bằng cách tính khoảng cách từ đỉnh múi ngoài thấp nhất đến mặt phẳng qua đỉnh của răng nanh và múi xa ngoài của răng cối lớn thứ hai (xem Hình 4). Độ sâu lý tưởng của đường cong Spee là khoảng 1,5 – 2 mm. Khi đường cong Spee sâu hơn 3 mm, được gọi là đường cong Spee sâu, và khi ít hơn 1,5 mm, được gọi là đường cong Spee phẳng. Nếu mất răng đối diện, đường cong Spee có thể bị mất hoặc bất thường. Những trường hợp này có thể dẫn đến mất nhả khớp, gây ảnh hưởng đến chức năng bộ máy nhai.

Ở người Việt Nam, đường cong Spee trung bình có độ sâu là 1,91 mm, nam giới (2,02 mm) cao hơn nữ giới (1,79 mm). Vị trí múi ngoài thấp nhất của đường cong Spee là múi gần ngoài của răng cối lớn thứ nhất (theo nghiên cứu của H.T.Hùng và N.T.K.Anh,

su-sap-xep-4
Hình 4: Đường cong Spee bình thường (A) và đường cong Spee sâu (B).

3. Đường cong Wilson

Đường cong Wilson được mô tả bởi Wilson vào năm 1917 và là đường nối các đỉnh của múi ngoài và múi trong của các cặp răng đối xứng trên cung hàm. Đường cong Wilson có hình dạng lõm nhẹ lên trên (xem Hình 5) và giúp đảm bảo răng cối được sắp xếp với hướng trục răng song song với hướng lực nhai theo chiều ngang, từ đó giúp nhả khớp sang bên và dồn thức ăn lên bản nhai một cách hiệu quả (xem Hình 6). Đường cong Wilson được tính cho cả răng cối nhỏ và răng cối lớn, và độ cong lõm tăng dần từ trước ra sau. Việc đánh giá đường cong Wilson là một đánh giá định tính, bằng cách quan sát mẫu hàm từ phía sau để xác định đường cong là dương tính (lõm) hay âm tính (phẳng hoặc lồi).

Hình 5: Đường cong Wilson đi qua múi ngoài và múi trong răng cối.
Hình 6: Đường cong Wilson với tư thế trục răng và chức năng dồn thức ăn lên bản nhai.

4. Sắp xếp theo mặt phẳng nhai và mặt cầu Monson

Mặt phẳng nhai là một mặt phẳng tưởng tượng đi qua bờ cắn răng cửa và tất cả các đỉnh múi răng, có dạng mặt cong lõm lên trên và tích hợp đường cong Spee và đường cong Wilson. Monson đã mô tả một mặt cong tích hợp giữa đường cong Spee và đường cong Wilson thành một mặt cầu, có bán kính khoảng 10,16 cm, với tâm là mào gà xương sàng (crista galli) (xem Hình 7). Mặt phẳng nhai là một phần của mặt cầu Monson và là cơ sở để tái lập đường cong Spee trên giá khớp. Tái lập mặt phẳng nhai, bao gồm đường cong Spee và đường cong Wilson, là rất quan trọng trong điều trị nha khoa phục hồi và điều trị chỉnh nha.

Việc tái lập mặt phẳng nhai bao gồm hai bước chính: xác định hướng mặt phẳng nhai và tái lập đường cong cắn khớp. Quá trình xác định hướng mặt phẳng nhai sẽ phụ thuộc vào chuyên khoa lâm sàng, bao gồm nha khoa phục hồi và chỉnh nha. Các chuyên gia sẽ sử dụng các mặt phẳng tham chiếu khác nhau để xác định hướng mặt phẳng nhai. Tuy nhiên, mặt phẳng nhai giải phẫu khác với mặt phẳng nhai trong chỉnh nha, được xác định qua các phân tích đo đầu.

Tái lập đường cong cắn khớp cũng là một bước quan trọng trong tái lập mặt phẳng nhai. Việc tái lập đường cong cắn khớp sẽ bao gồm việc chọn kích thước và hình dạng của giá khớp để tạo ra sự ổn định và độ chính xác cần thiết.

Hình 7: Hình ảnh xương hàm dưới (A) với mặt cầu Monson đi qua trung tâm lồi cầu (B), với tâm là mào gà xương sàng(C). Mặt cầu đi qua mặt nhai chiều trước sau (D: đường cong Spee) và chiều ngang (E: đường cong Wilson) (nguồn: Internet).

Nguồn: Sách Chỉnh nha lâm sàng – Từ nguyên lý đến kỹ thuật, NXB Y học Việt Nam


Posted

in

,

by

Tags:

Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *