HIV (Human immunodeficiency virus) là virus gây suy giảm miễn dịch ở người, tấn công hệ thống miễn dịch của cơ thể, tiêu hủy dần các tế bào miễn dịch tạo thuận lợi cho các nhiễm trùng cơ hội, rối loạn thần kinh, và các khối u gây tử vong cho người bệnh. Vi-rút HIV lây lan chủ yếu qua quan hệ tình dục, tiếp xúc với máu nhiễm HIV, sử dụng chung kim tiêm và từ mẹ sang con trong thai kỳ hoặc qua sữa mẹ.
1. Hỏi kỹ về tiền sử bệnh
Cần tiến hành hỏi bệnh sử kỹ lưỡng và khám thực thể ở người mang thai nhiễm HIV để xem liệu người mẹ có vấn đề gì về sức khỏe hay không, điều này cũng có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của thai nhi. Bệnh nhân phải được hỏi kỹ về tiền sử nhiễm trùng , bệnh lao, nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục (STIs), sử dụng thuốc (bao gồm cả thuốc không kê đơn), tình trạng tiêm chủng hoặc các vấn đề lạm dụng chất gây nghiện như hút thuốc lá, sử dụng ma túy bất hợp pháp (ví dụ: cocaine, heroin). Những phụ nữ bị ức chế miễn dịch, bị sốt và sụt cân có thể bị nhiễm trùng cơ hội tiềm ẩn, có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của mẹ và thai nhi (ví dụ như bệnh lao). Nên đánh giá bằng chứng về các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STI) như là một phần của chăm sóc tiền sản định kỳ.
Việc khám sức khỏe nên tập trung vào việc đánh giá bất kỳ dấu hiệu nào của nhiễm HIV tiến triển (ví dụ: tưa miệng hoặc bằng chứng gầy còm) hoặc các dấu hiệu của các bệnh lây truyền qua đường tình dục (ví dụ: loét sinh dục hoặc tiết dịch âm đạo). Vì nhiều bệnh nhân nhiễm HIV cũng có nguy cơ mắc bệnh viêm gan siêu vi, nên việc kiểm tra cẩn thận các dấu hiệu của bệnh gan tiến triển (ví dụ: gan to, lách to, u mạch dạng nhện) cũng được chỉ định.
2. Xác định tuổi thai
Hình ảnh siêu âm có thể ước tính tuổi thai và từ đó tính được ngày dự sinh. Việc xác định chính xác tuổi thai của thai nhi là đặc biệt quan trọng đối với những người mang thai nhiễm HIV vì việc sinh con sớm có thể cần thiết để giảm nguy cơ lây truyền HIV từ mẹ sang con.
Sinh mổ trước chuyển dạ được khuyến cáo ở tuần thứ 38 của thai kỳ trong trường hợp ức chế virus không hoàn toàn (>1000 bản sao/mL). Do nhu cầu sinh mổ sớm, theo lịch trình với nguy cơ phổi thai nhi chưa trưởng thành, siêu âm trong ba tháng đầu nên được thực hiện, khi có thể, để đảm bảo xác định ngày mang thai chính xác
3. Thực hiện các xét nghiệm cần thiết trước khi sinh
3.1 Số lượng tế bào CD4
Số lượng tế bào CD4 nên được đánh giá vào lần khám đầu tiên và ít nhất ba tháng một lần trong thời kỳ mang thai. Đối với những bệnh nhân đã điều trị bằng thuốc kháng vi-rút kết hợp (ART) với sự ức chế vi-rút ổn định và có số lượng CD4 trên ngưỡng nhiễm trùng cơ hội (>200 tế bào/microL và >14 phần trăm), việc theo dõi số lượng tế bào CD4 có thể được thực hiện sáu tháng một lần. Bản thân quá trình mang thai có liên quan đến sự suy giảm số lượng CD4 tuyệt đối, điều này có thể liên quan đến việc tăng thể tích máu trong huyết tương; tuy nhiên, thường không có ảnh hưởng đến tỷ lệ phần trăm tế bào CD4.
Tiêu chí tế bào CD4 để bắt đầu điều trị dự phòng cho bệnh pneumocystis, toxoplasmosis, hoặc phức hợp Mycobacterium avium cũng giống như ở bệnh nhân nhiễm HIV không mang thai
3.2 Đo tải lượng vi-rút
Axit ribonucleic HIV (RNA) trong huyết tương được theo dõi thường xuyên trong thai kỳ để xác nhận việc đạt được và duy trì ức chế vi-rút. Giống như ở người trưởng thành nhiễm HIV mà không mang thai, bệnh nhân biểu hiện lượng virus trong huyết tương giảm ít nhất hai log sau một tháng kể từ khi bắt đầu điều trị. Cần đạt được sự ức chế hoàn toàn virus càng sớm càng tốt ở bệnh nhân mang thai. Virus máu dai dẳng được phát hiện hơn tám tuần sau khi bắt đầu điều trị nên nghi ngờ về sự tuân thủ điều trị kém, HIV kháng thuốc, tăng chuyển hóa (các) thuốc do mang thai dẫn đến nồng độ thuốc thấp hoặc tương tác thuốc,
Cần theo dõi chặt chẽ để xác nhận tính hiệu quả của chế độ điều trị bằng thuốc kháng vi-rút của bệnh nhân vì nồng độ RNA HIV cao hơn có liên quan đến việc tăng nguy cơ lây nhiễm HIV từ mẹ sang con.
Nồng độ HIV RNA thường được theo dõi khi bắt đầu chăm sóc, tại thời điểm bắt đầu điều trị ARV, từ hai đến bốn tuần sau khi bắt đầu (hoặc thay đổi) điều trị, hàng tháng cho đến khi ức chế hoàn toàn vi rút và sau đó ít nhất ba tháng một lần trong thời gian còn lại của thai kỳ. Những bệnh nhân đang điều trị phác đồ điều trị ARV thiếu dữ liệu về việc sử dụng trong thai kỳ (ví dụ: phác đồ hai loại thuốc, thuốc điều trị ARV mới hơn có ít hoặc không có dữ liệu dược động học trong thai kỳ) nên kiểm tra tải lượng vi-rút thường xuyên hơn (một hoặc hai tháng một lần) trong thời kỳ mang thai. Đối với những bệnh nhân ức chế vi-rút bằng chế độ điều trị dựa trên cobicistat và không muốn thay đổi chế độ điều trị trong thai kỳ, cần kiểm tra nồng độ vi-rút hàng tháng trong suốt thai kỳ.
Tải lượng virus trong huyết tương cũng nên được đánh giá khi thai được 34 đến 36 tuần để hỗ trợ quyết định về phương thức và thời điểm sinh. Nếu tải lượng vi rút có thể phát hiện được, nên xét nghiệm kháng thuốc và đánh giá tuân thủ điều trị. Nếu tải lượng vi-rút >1000 bản sao/mL khi thai gần đủ tháng, bệnh nhân nên được tư vấn về lợi ích của việc mổ lấy thai theo lịch trình trước khi chuyển dạ ở tuần thai 38 để ngăn ngừa lây truyền
3.3 Xét nghiệm kháng thuốc
Nên thực hiện xét nghiệm HIV kháng thuốc trước khi bắt đầu hoặc điều chỉnh phác đồ điều trị ARV ở tất cả những người mang thai có nồng độ RNA HIV cao hơn ngưỡng xét nghiệm kháng thuốc (tức là >500 đến 1000 bản sao/mL). Đối với những người nhiễm HIV mang thai chưa từng được điều trị, nên bắt đầu điều trị ARV ngay trước khi nhận được kết quả xét nghiệm kháng thuốc; phác đồ có thể được sửa đổi nếu cần thiết dựa trên kết quả xét nghiệm kháng thuốc. Điều này đặc biệt quan trọng nếu người mẹ đến chăm sóc muộn, vì nguy cơ lây truyền HIV từ mẹ sang con có liên quan đến thời gian điều trị ARV trước khi sinh và mức độ ức chế vi rút khi sinh.
3.4 Theo dõi độc tính của ART
Độc tính liên quan đến ART nên được đánh giá dựa trên chế độ dùng thuốc cụ thể. Như với tất cả bệnh nhân nhiễm HIV, công thức máu toàn bộ (CBC), nitơ urê máu (BUN) và creatinine, và các xét nghiệm chức năng gan được kiểm tra trước khi bắt đầu điều trị ARV và cứ sau 3 đến 6 tháng sau đó. Xét nghiệm nước , tiểu cũng được kiểm tra sau khi bắt đầu điều trị ARV và cứ sau 6 tháng khi điều trị bằng chế độ chứa tenofovir. Ngay cả khi không có khả năng nhiễm độc ART, nhiễm HIV cũng có liên quan đến những bất thường về chức năng tủy xương, thận và gan, trực tiếp hoặc do các bệnh kèm theo. Thiếu máu ở người mẹ có liên quan đến việc tăng nguy cơ kết quả thai kỳ bất lợi cũng như lây nhiễm HIV từ mẹ sang con
Ngoài ra còn thực hiện một số xét nghiệm khảo sát đánh giá khác trước lúc sinh như: Sàng lọc bệnh tiểu đường thai kỳ, xét nghiệm viêm gan siêu vi, xét nghiệm bệnh lao, sàng lọc các bệnh lây truyền qua đường tình dục, huyết thanh học Toxoplasma, huyết thanh Cytomegalovirus ,..
Leave a Reply