Phục hình tạm tức thì – Đánh giá quá trình tải lực.

Phục hình tạm tức thì là phục hình được gắn lên implant trong vòng 1 tuần sau khi đặt implant. Có thể đặt implant vào vị trí đang lành thương và/hoặc đã lành thương hoặc ổ răng sau khi nhổ. Đối với mão đơn lẻ trên implant ở vùng răng trước và răng cối nhỏ, tải lực tức thì là một phương thức tiên lượng về tỷ lệ tồn tại implant và sự ổn định của viên xương. Cùng đánh giá quá trình tải lực, điều kiện, tiên lượng và giải pháp thay thế của loại phục hình này.

phuc-hinh-tam-1

1. Điều kiện của phục hình tạm tức thì

Phục hình tạm tức thì là phục hình được gắn lên implant trong vòng 1 tuần sau khi đặt implant. Có thể đặt implant vào vị trí đang lành thương và/hoặc đã lành thương hoặc ổ răng sau khi nhổ. Tải lực tức thì cho mão đơn lẻ trên implant và cầu rằng trên implant được áp dụng hạn chế trong những tình huống thỏa mãn các điều kiện sau:

  • Độ ổn định sơ khởi của implant (torque vặn 2 20-45 Ncm và/hoặc ISQ ≥ 60-65);
  • Chiều dài implant > 10 mm
  • Không có chống chỉ định toàn thân hoặc tại chỗ (thiếu hồng xương lớn cần ghép xương, thể tích và mật độ xương kém, hoạt động cận chức năng, cần nâng xoang, sức khỏe toàn thân)
  • Kiến thức và kinh nghiệm lâm sàng;
  • Khi lợi ích lâm sàng lớn hơn nguy cơ
  • Đặt implant tức thì sau nhổ răng không phải là chống chỉ định của tải lực tức thì nếu đạt được độ ổn định sơ khởi.

Tải lực thông thường lên implant là gắn phục hình lên implant sau 2 tháng hoặc lâu hơn kể từ thời điểm đặt implant. Tải lực thông thường được tiên lượng trong mọi tình huống lâm sàng, và đặc biệt được áp dụng trong trường hợp điều trị thay đổi như độ ổn định sơ khởi của implant kém, ghép xương nhiều, giảm kích thước implant và sức khỏe bệnh nhân không tốt.
Ngược lại, tải lực tức thì là gắn phục hình trong vòng 1 tuần sau khi đặt implant. Khi được chỉ định đúng thì tải lực tức thì có tỷ lệ tồn tại tương tự như tải lực thông thường.

2. Tiên lượng của dạng phục hình này

Đối với mão đơn lẻ trên implant ở vùng răng trước và răng cối nhỏ, tải lực tức thì là một phương thức tiên lượng về tỷ lệ tồn tại implant và sự ổn định của viên xương. Tuy nhiên, các dữ liệu về mô mềm chưa đủ để kết luận về việc áp dụng phương thức tải lực tức thì hoặc tải lực sớm cho mão đơn lẻ trên implant ở vị trí thẩm mỹ như một điều trị thường quy. Tải lực tức thì ở những vị trí như vậy nên được áp dụng thận trọng bởi bác sĩ lâm sàng giàu kinh nghiệm. Ở vùng răng cối lớn hàm dưới, tải lực tức thì cho mão đơn lẻ trên implant là một phương thức tiên lượng và thường được áp dụng trong những trường hợp đem lại lợi ích lâm sàng.

Ở vùng răng cối lớn hàm trên, có rất ít dữ liệu về tải lực tức thì cho mão đơn lẻ trên implant, và nên lựa chọn tải lực thông thường cho những vị trí này. Đối với bệnh nhân mất rằng bản phần bị mất nhiều răng sau liên tiếp, có một vài bằng chứng khoa học cho thấy tải lực tức thì ở những bệnh nhân với nhiều vị trí cấy ghép đã lành thương ở vùng răng sau có tỷ lệ tồn tại tương tự như tải lực tức sớm hoặc tải lực thông thường.

Không có đủ bằng chứng ủng hộ tải lực tức thì trên bệnh nhân mất rằng bản phần bị mất nhiều răng ở vùng răng trước hàm trên và hàm dưới. Do đó, nó phải được áp dụng thận trọng bởi bác sĩ lâm sàng giàu kinh nghiệm.

Đối với bệnh nhân mất răng toàn bộ, bằng chứng khoa học mạnh mẽ từ y văn cho thấy tải lực tức thì có tỷ lệ tồn tại implant tương tự như tải lực thông thường. Ở bệnh nhân mất răng toàn bộ và sử dụng implant bề mặt vi xử lý, thì tải lực tức thì, sớm, hoặc thông thường kết hợp với phục hình tạm cố định một khối sẽ mang lại tỷ lệ tồn tại implant và phục hình cao ở hàm dưới lẫn hàm trên.

Ngoài những điều kiện nêu trên của tải lực tức thì, các yếu tố khớp cắn cũng ảnh hưởng đến kết quả của phục hình tạm tức thì. Loại bỏ cản trở trong mọi vận động chức năng và ở khớp cắn trung tâm là cần thiết để đạt được sự tích hợp xương, đồng thời ngăn ngừa tải lực quá mức lên implant cùng với những hệ lụy tiếp theo. Bệnh nhân cần tuân thủ chế độ ăn mềm trong 6 tuần đầu tiên sau khi mang phục hình tạm tức thì. Tải lực thông thường được tiên lượng trong mọi tình huống lâm sàng, và đặc biệt được áp dụng trong trường hợp điều trị thay đổi như độ ổn định sơ khởi của implant kém, ghép xương nhiều, giảm kích thước implant và sức khỏe bệnh nhân không tốt.

3. Phương án thay thế dạng phục hình tạm tức thì

Tải lực thông thường được tiên lượng trong mọi tình huống lâm sàng, và đặc biệt được áp dụng trong trường hợp thay đổi điều trị như độ ổn định sơ khởi của implant kém, ghép xương nhiều, giảm kích thước implant và sức khỏe bệnh nhân không tốt. Trong những trường hợp này, phục hình tạm tháo lắp hoặc phục hình tạm nâng đỡ trên răng thật sẽ được chỉ định. Trong trường hợp không có điều trị thay đổi, thì thường áp dụng phương thức tải lực sớm trong 6-8 tuần ở khoảng trống một răng hoặc nhiều hơn đã lành thương của bệnh nhân mất răng bán phần.

Khi một phần xương mặt ngoài bị mất sau nhổ răng, thì nên đặt implant sớm sau thời gian lành thương 6-8 tuần. Đặt implant được thực hiện đồng thời với GBR để phục hồi đường viền mặt ngoài. Áp dụng phương pháp đặt implant vùi, tiếp theo là mang phục hình tạm tháo lắp trong suốt giai đoạn tích hợp xương. Kết quả dài hạn của phương pháp ghép đường viền mặt ngoài đã được ủng hộ trên lâm sàng và về mặt thẩm mỹ sau 5-9 năm theo dõi.

Nguồn tài liệu: Clinical Cases in Implant Dentistry, First Edition – Published 2017 by John Wiley & Sons, Inc.


Posted

in

,

by

Tags:

Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *