Siêu âm của tổn thương phình động mạch

Phình động mạch là tình trạng giãn ra cục bộ của thành mạch làm mất tính song song của thành động mạch. Siêu âm Doppler là thăm dò cận lâm sàng được sử dụng phổ biến nhất trong chẩn đoán và điều trị các bệnh lý mạch máu.

1. Tổng quan

Siêu âm Doppler là thăm dò cận lâm sàng được sử dụng phổ biến nhất trong chẩn đoán và điều trị các bệnh lý mạch máu. Phương pháp này cho phép phân tích về giải phẫu cũng như huyết động của tổn thương, góp phần phân loại và xác định mức độ nặng của bệnh lý.

2. Hình ảnh siêu âm động mạch bình thường

Siêu âm 2D : Động mạch được thăm dò có dạng hai đường thẳng song song nhau, đập theo nhịp tim. Thành động mạch đều, nhẵn, bao gồm ba lớp đi từ phía trong lòng động mạch ra: (1) Đường trong cùng mịn, mảnh, đậm âm, tương ứng với phản hồi của sóng siêu âm lên bề mặt nội mạc mạch máu. (2) Đường ở giữa giảm âm, tương ứng với bề dày lớp nội – trung mạc. (3) Đường ngoài cùng khá dày, đậm âm hơn lớp trong, tương ứng với lớp ngoại mạc.

Siêu âm Doppler màu : Cho thông tin về hướng dòng chảy và giá trị trung bình vận tốc dòng chảy, hình ảnh màu có sự biến thiên về dòng chảy theo nhịp đập.

Siêu âm Doppler xung : Dựa và o hình dạng, phổ Doppler xung được chia làm 3 loại chính: Dạng phổ Doppler có độ đập cao, trung bình và thấp tương ứng với sức cản ngoại vi của vùng mô mà động mạch chi phối.

Dạng phổ Doppler có độ đập cao: Các động mạch có dạng phổ Doppler có độ đập cao là: Đ ộng mạch chi dưới, động mạch chi trên, động mạch chủ bụng. Hình ảnh ba pha đặc trưng: (1) Một đỉnh tâm thu nét và hẹp, bao gồm thành phần tâm thu dốc lên và thành phần cuối tâm thu dốc xuống nhanh. (2) Một phổ âm đầu tâm trương, phản ánh sức cản ngoại vi lớn. (3) Một sóng dương phản hồi, không hằng định, với một vài dao động phía sau, phản ánh sức đàn hồi tốt của động mạch (ở người trẻ).

Dạng phổ Doppler có độ đập thấp: Gặp ở các động mạch nuôi tạng (động mạch thận, động mạch lách, động mạch gan, động mạch mạc treo tràng trên ở trạng thái no), động mạch cảnh trong và các động mạch não, các động mạch chi ngay sau trạng thái vận động. Phổ Doppler có đỉnh tâm thu không cao, tròn, chân rộng, pha tâm trương cùng chiều với tâm thu.

Dạng phổ Doppler có độ đập trung bình: Gặp ở động mạch cảnh ngoài, động mạch mạc treo tràng trên khi đói.

3. Hình ảnh siêu âm của tổn thương phình động mạch

3.1 Siêu âm 2D

Phình động mạch là tình trạng giãn ra cục bộ của thành mạch làm mất tính song song của thành động mạch. Có 3 kiểu phình động mạch:

  • Phình hình túi không có cuống.
  • Phình hình túi có cuống.
  • Phình hình

Siêu âm 2D với 2 mặt cắt cơ bản là dọc trục và ngang trục có thể cung cấp thông tin về hình thái và cấu trúc của khối phình:

  • Kích thước: Chiều dài, đường kính trước sau, đường kính ngang lớn nhất, đường kính cổ trên, cổ dưới.
  • Liên quan của khối phình: Khối phình liên quan đến những cấu trúc giải phȁu nào, chèn ép mạch máu nào.
  • Biến chứng: Huyết khối trong khối phình, có tách thành động mạch hay không.

Phình động mạch

Phình động mạch trên siêu âm 2D

3.2 Siêu âm Doppler:

Âm thanh: Phụ thuộc vị trí mạch khảo sát, nói chung âm thanh tần số không cao, nghe ngắn và gọn.

Hình ảnh màu: Vòng xoáy âm – dương nửa xanh nửa đỏ, tượng trưng cho luồng xoay tốc độ không lớn.Phổ Doppler: Phụ thuộc vị trí khảo sát, có thể phần (-) hoặc phần (+) chiếm ưu thế hoặc chỉ một phía.

3.2.1 Siêu âm Doppler đánh giá phình động mạch chủ bụng

Động mạch chủ bụng được cho là có chứng phình động mạch khi động mạch chủ ở xa bị giãn ra với đường kính lớn hơn 3cm. Một phình động mạch chủ bụng thường mở rộng với tốc độ 2-8 mm / y. Bởi vì mở rộng dẫn đến tỷ lệ vỡ ngày càng tăng (ví dụ, phình động mạch chủ bụng 7cm có tỷ lệ vỡ 19-32% mỗi năm) và vì tỷ lệ tử vong khi sửa chữa tự chọn thấp hơn nhiều so với sửa chữa khẩn cấp (3- 5% so với 50%), khuyến nghị chung là phình động mạch chủ bụng lớn hơn 5,0-5,5 cm nên được sửa chữa một cách tự chọn.

Mặc dù tuyệt vời cho các tổn thương sau, siêu âm không cung cấp đủ chi tiết để lập kế hoạch thủ thuật hoặc các tổn thương phức tạp hơn. Với phạm vi được báo cáo trong sai số đo là 4mm 12 , siêu âm không thể được sử dụng một cách đáng tin cậy để đánh giá các phương pháp điều trị nội mạch và đánh giá các mạch nhánh khu vực.

Chỉ định siêu âm trong phình động mạch chủ bụng trong các trường hợp sau:

  • Nghi ngờ phình động mạch chủ bụng
  • Như một phương pháp hỗ trợ chẩn đoán trong việc đánh giá những bệnh nhân trên 60 tuổi có biểu hiện đau không đặc hiệu ở lưng, mạn sườn, bụng hoặc bẹn
  • Để đánh giá nhanh một bệnh nhân không ổn định trong tình trạng cấp cứu hoặc bệnh nhân chăm sóc cấp tính khác.

4. Kết luận

Siêu âm động mạch là một kỹ thuật  sử dụng sóng siêu âm để tạo ra hình ảnh và đánh giá sức khỏe của động mạch. Kỹ thuật này cho phép  xem xét các vấn đề về lưu thông máu và hình dạng của động mạch, giúp phát hiện các bệnh lý như động mạch bị xoắn, động mạch bị phình, và các tắc nghẽn khác. Siêu âm động mạch không xâm lấn và không gây đau, nên được sử dụng rộng rãi trong các phòng khám và bệnh viện.


Posted

in

,

by

Tags:

Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *