NexoBrid (Anacaulase): thuốc mới trong điều trị bỏng nặng

NexoBrid (hay còn gọi là Anacaulase) là một loại thuốc mới được sử dụng trong điều trị bỏng nặng. Thuốc được sản xuất bởi công ty MediWound, đã được chứng nhận an toàn và hiệu quả bởi Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA). NexoBrid là một enzyme hủy hoại protein gây ra tổn thương cho da bị bỏng, giúp loại bỏ các mô chết và giảm thiểu việc phải phẫu thuật cắt bỏ da. Thuốc được đánh giá là có tiềm năng để cải thiện điều trị bỏng nặng và giảm thiểu sự đau đớn cho bệnh nhân.

1.Tìm hiểu sơ lược về bỏng do nhiệt

Bỏng nhiệt là vết thương ngoài da do nhiệt độ quá cao, điển hình là do tiếp xúc với bề mặt hoặc chất lỏng nóng, hơi nước và ngọn lửa. Hầu hết các vết bỏng đều nhẹ và có thể được điều trị ngoại trú hoặc tại các bệnh viện địa phương. Khoảng 6,5% tổng số bệnh nhân bị bỏng được điều trị tại các trung tâm chuyên khoa bỏng. Quyết định chuyển và điều trị tại các trung tâm chuyên khoa bỏng dựa trên mức độ diện tích bề mặt cơ thể bị bỏng, độ sâu của vết bỏng và các đặc điểm của từng bệnh nhân như tuổi tác, các vết thương khác hoặc các vấn đề y tế khác

Bỏng nhiệt là loại bỏng phổ biến nhất, chiếm khoảng 86% số bệnh nhân bỏng cần nhập viện

Bỏng nhiệt
Bỏng nhiệt

Nguyên nhân: bỏng thường do chất lỏng nóng, hơi nước, ngọn lửa, đèn flash hoặc chấn thương do điện.

Dịch tễ học: Khoảng 450.000 bệnh nhân được điều trị bỏng hàng năm và khoảng 30.000 người cần nhập viện tại các trung tâm bỏng. Khoảng 86% các ca bỏng là bỏng nhiệt trong đó 43% do lửa, 34% do bỏng nước, 9% do vật nóng. Hàng năm, có khoảng 3400 bệnh nhân tử vong do bỏng hoặc các biến chứng liên quan như hít khói, ngộ độc khí CO2, ngộ độc HCN,…Khoảng 72% số ca tử vong này xảy ra do hỏa hoạn ở khu dân cư. Do đó, bỏng là nguyên nhân thứ 4 gây tử vong do chấn thương và là nguyên nhân thứ hai gây tử vong do tai nạn ở trẻ em trong độ tuổi từ 1-4 tuổi. 

Sinh lý bệnh: Da là cơ quan lớn nhất của cơ thể, chiếm khoảng 16% trọng lượng của một người và có các chức năng chính là bảo vệ, điều chỉnh nhiệt độ cơ thể, ngăn ngừa mất chất lỏng,…Bỏng nhiệt gây cả tổn thương tại chỗ và nếu nặng gây phản ứng toàn thân (>20% diện tích bề mặt cơ thể). Các vết thương cục bộ (từng vùng nhỏ trong tổn thương) được phân loại thành 3 vùng tổn thương khác nhau theo mô hình mục tiêu hình tròn. Vùng trong cùng là vùng đông máu hoặc hoại tử, đại diện cho vùng tế bào chết không hồi phục. Vùng xung quanh là vùng thiếu máu cục bộ hoặc ứ đọng, đại diện cho vùng giảm tuần hoàn và là vùng có nguy cơ tiến triển thành hoại tử do giảm tưới máu hoặc nhiễm trùng. Vùng ngoài cùng là vùng sung huyết, đại diện cho một vùng giãn mạch có hồi phục. Bỏng là những vết thương động (tức là tổn thương tiến triển) có thể tiến triển trong vài giờ đến vài ngày, gây khó khăn cho việc xác định chính xác các vùng khác nhau trong giai đoạn đầu của vết thương. Việc phân loại vùng tổn thương như vậy sẽ giúp cho quá trình điều trị được hiệu quả hơn và đảm bảo sự phục hồi tối đa cho vùng tổn thương

Mức độ bỏng: Nếu vết thương do bỏng chỉ liên quan đến lớp biểu bì, nó được phân loại là bỏng cấp độ 1 và không gây ra sự suy giảm chức năng của da. Nếu vết thương lan vào lớp hạ bì thì được phân loại là bỏng độ 2 và có thể làm giảm chức năng điều hòa nhiệt độ, ngăn mất nước của da. Nếu vết thương lan rộng qua cả hai lớp, đây là vết bỏng toàn bộ hoặc bỏng độ 3 và các chức năng bình thường của da bị mất. Bỏng bề mặt (cấp độ 1) ấm, đau, đỏ, mềm, thường không phồng rộp và sẽ tái đi tái lại nhiều lần (ví dụ như cháy nắng). Bỏng độ 2 có thể khác nhau nhưng rất đau, đỏ, phồng rộp, ẩm, mềm và sẽ tái nhợt khi chạm vào. Bỏng toàn bộ bề dày (hoặc độ 3) ít đau hoặc không đau, có thể có màu trắng, nâu hoặc cháy thành than và có cảm giác chắc da khi chạm vào và không bị tái nhợt

Điều trị và kiểm soát: Điều trị bỏng bắt đầu tại chỗ bị thương. Bước đầu là loại bỏ vật đang cháy và nóng khi tiếp xúc với da. Những vùng bỏng nhỏ có thể được làm mát bằng nước mát hoặc dung dịch muối. Nếu bệnh nhân bị bỏng nặng, thận trọng khi làm mát quá mức vì dễ dẫn đến hạ thân nhiệt. Bỏng độ 2 được điều trị bằng cách làm sạch, bôi thuốc mỡ kháng sinh hoặc băng bó, thuốc giảm đau và tăng cường phòng ngừa uốn ván nếu cần. Bệnh nhân bị bỏng nặng sẽ cần hồi sức bằng Oxy, theo dõi tim, đặt ống thông mũi, ống thông Foley, thuốc giảm đau IV, thuốc tăng cường phòng ngừa uốn ván và chuyển đến trung tâm bỏng. Nếu bệnh nhân đang chuyển đến trung tâm bỏng, chỉ cần làm sạch và che vết bỏng mà không cần bôi kem hoặc thuốc mỡ. Một phương pháp điều trị vết bỏng độ 2 là phủ lên vết bỏng bằng thuốc mỡ kháng sinh tại chỗ, phương pháp khác để xử lý vết thương do bỏng là đắp băng chuyên dụng lên vết bỏng và để yên trong khoảng một tuần. 

2.Tổng quan về thuốc Nexobrid (Anacaulase)

Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) đã phê duyệt Nexobrid (Anacaulase) để loại bỏ lớp da khô và da chết do bị bỏng từ cấp độ 2 trở lên. Việc chấp thuận Nexobrid dựa trên dữ liệu từ 2 thử nghiệm lâm sàng: thử nghiệm Detect giai đoạn 3 so sánh NexoBrid với giả dược ở 175 người trưởng thành bị bỏng cấp độ 2 hoặc cấp độ 3 lên đến 30% tổng diện tích bề mặt cơ thể (BSA). Kết quả cho thấy tỷ lệ loại bỏ lớp da khô chết ≥95% vào cuối giai đoạn điều trị tại chỗ đối với bệnh nhân trong nhóm NexoBrid là 93% so với 4% nhóm giả dược. Nexobrid cũng được đánh giá trong một nghiên cứu 2 trên những bệnh nhân bị bỏng nhiệt sâu một phần và toàn bộ diện tích từ 5 đến 24% BSA . Trong số những bệnh nhân này, 156 người được chỉ định ngẫu nhiên để nhận Nexobrid đạt hiệu quả khi chỉ 22% trong số bệnh nhân phải phẫu thuật loại bỏ da khô sau khi sử dụng thuốc

2.1 Nhóm dược lý 

NexoBrid (Anacaulase) là hỗn hợp các enzym phân giải protein được chỉ định để loại bỏ vảy ở người lớn bị bỏng nhiệt độ dày một phần sâu và/hoặc toàn bộ độ dày (độ 2 hoặc độ 3)

NexoBrid (Anacaulase)
NexoBrid (Anacaulase)

2.2 Cơ chế hoạt động 

Hỗn hợp enzyme trong Anacaulase hòa tan lớp da khô và lớp da bị chết 

2.3 Dược động học 

Hấp thu: Anacaulase được bôi tại chỗ nên được hấp thu nhanh chóng với Tmax = 4 giờ. AUC và Cmax tương quan với liều dùng 

Phân bố: Khoảng 50% Anacaulase liên kết với các Antiproteinase (α2-macroglobulin và α1-antichymotrypsin) trong huyết tương 

Chuyển hóa: Anacaulase được chuyển hóa bởi các Protease trên khắp cơ thể 

Thải trừ: Thời gian bán thải dao động từ 12-17 giờ 

2.4 Tác dụng phụ 

Các tác dụng phụ phổ biến thường xảy ra (>10% trường hợp): ngứa (15%) và sốt (12%). Các tác dụng phụ ít gặp hơn gồm: biến chứng vết thương (9%), thiếu máu (6%), nôn mửa (5%), mất ngủ (5%), nhịp tim nhanh (3%), phát ban (3%),….

2.5 Chống chỉ định 

Chống chỉ định với các đối tượng quá mẫn với thuốc hoặc bất kỳ thành phần nào của thuốc 

3.Cảnh báo và thận trọng khi sử dụng Nexobrid (Anacaulase) trong điều trị bỏng

3.1 Phản ứng quá mẫn khi điều trị bằng Nexobrid

Các phản ứng quá mẫn nghiêm trọng, bao gồm sốc phản vệ, đã được báo cáo khi sử dụng Nexobrid sau khi đưa ra thị trường

3.2 Kiểm soát cơn đau 

Loại bỏ lớp da khô chết bằng thuốc Nexobrid để điều trị vết bỏng liên quan đến vết thương đều gây đau đớn, cần giảm đau và/hoặc gây mê đầy đủ. Vì vậy trước khi sử dụng thuốc, đảm bảo áp dụng đầy đủ các biện pháp kiểm soát cơn đau 

3.3 Tổn thương do phân giải protein đối với các mô 

Bảo vệ bất kỳ vết thương hở nào (vết rách, da bị trầy xước và vết mổ rạch tầng sinh môn) bằng gạc tẩm thuốc mỡ để ngăn khả năng tiếp xúc với thuốc Nexobrid

3.4 Rối loạn đông máu 

Giảm kết tập tiểu cầu và nồng độ fibrinogen trong huyết tương, tăng vừa phải một phần Thromboplastin và thời gian Prothrombin đã được báo cáo sau khi uống Nexobrid. Do đó, tránh sử dụng thuốc ở những bệnh nhân bị rối loạn đông máu không kiểm soát được

 


Posted

in

by

Tags:

Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *