Phân loại độ nặng nhược cơ theo Osserman cải tiến

Độ nặng nhược cơ là một trong các tiêu chí để đánh giá mức độ nặng của bệnh thần kinh cơ bản. Osserman đã đề xuất một phân loại dựa trên độ nặng của triệu chứng nhược cơ. Phân loại này giúp xác định mức độ nặng của bệnh thần kinh cơ bản và đưa ra những phương pháp điều trị phù hợp. Tuy nhiên, nên lưu ý rằng phân loại này chỉ đưa ra một cái nhìn chung về mức độ nặng của bệnh và không phản ánh toàn bộ tình trạng sức khỏe của bệnh nhân.

Hình ảnh minh họa người bệnh nhược cơ

1. Tổng quan về bệnh nhược cơ

Hiện nay, để thuận tiện cho nghiên cứu và theo dõi diễn tiến của bệnh, bảng phân loại Osserman cải tiến dang được nhiều tác giả đề nghị sử dụng.

Lưu ý bệnh nhược cơ không phải là bệnh cơ, mà là bệnh của synap thần kinh –   cơ. Bệnh có đặc trưng là yếu sức cơ vân xương, yếu cơ tăng lên khi vận động, phục hồi khi nghỉ ngơi và thuyên giảm rõ rệt khi dùng thuốc kháng cholinesterase. Bệnh do tự miễn, do tự kháng thể trực tiếp chống lại thụ cảm thể acetylcholine ở màng sau synap của synap thần kinh – cơ. 10-15% trường hợp có u tân sinh của tuyến ức, 65% có tăng sản các nang lympho ở thùy tuyến ức. Kháng thể kháng protein của thụ cảm thể Acetylcholine thấy có ở khoảng 85% bệnh nhân nhược cơ toàn thân và 60% bệnh nhân nhược cơ ổ mắt. Các kháng thể này phong tỏa không cho các phân tử Acetylcholine gắn vào với thụ cảm thể và làm giảm số lượng thụ cảm thể Acetylcholine.

Tần suất bệnh khoảng 1/10 000 dân, nữ nhiều hơn nam (tỷ lệ 2/1). Trẻ em dưới 10 tuổi chiếm tỷ lệ khoảng 10% tổng số bệnh nhân.

Lâm sàng: Khởi phát ở bất kỳ tuổi nào, thường phụ nữ độ tuổi 20-30 và nam giới ở độ tuổi 60-70. Khởi đầu thường âm thầm, đôi khi bộc lộ sau một stress hay bệnh nhiễm trùng (thường là nhiễm trùng hô hấp).

Yếu cơ không phù hợp với bất kỳ định khu thần kinh nào. Thường biểu hiện đầu tiên ở các cơ ổ mắt, với sụp mi hoặc nhìn đôi. Cũng có khi biểu hiện đầu tiên ở cơ nhai, nuốt và nói. Hiếm khi biểu hiện đầu tiên ở cơ tứ chi. Nhung khi bệnh đã phát trển, tất cả các cơ đều có thể bị yếu, bao gồm cả các cơ hô hấp như cơ hoành, cơ liên sườn, cơ thành bụng. Trong các cơ ở tứ chi, thì các cơ gốc chi (vai – nách và chậu – đùi) thường bị nặng hơn các cơ ở ngoại vi (bàn tay – cẳng tay và bàn chân – cẳng chân). Trong một ngày, thường yếu cơ nhẹ vào buổi sáng và nặng lên vào buổi chiều tối.

Phản xạ gân xương đa số bình thường. Cơ tim và các cơ trơn không bị ảnh hưởng.

Phản xạ đồng tử với ánh sáng và điều tiết bình thường.

Diễn tiến của bệnh nhược cơ rất khác nhau. Có ngươi yếu cơ tiến triển và lan rộng ra rất nhanh, có người thì chỉ yếu khu trú một nhóm cơ kéo dài hàng nhiều tháng. Có thể có đợt thuyên giảm tự phát ở khoảng 25% số bệnh nhân, nhưng thường chỉ trong giai đoạn đầu của bệnh và hiếm khi lâu quá 2 năm. Khi nặng, bệnh nhân có thể tử vong do biến chứng hô hấp.

2. Phân loại độ nặng nhược cơ theo Osserman cải tiến

 

Đ ộ Mức độ nặng
I Chỉ ảnh hưởng đến mắt
II Yếu cơ toàn thân nhẹ. Có thể có ảnh hưởng mắt hoặc hầu họng.
III Yếu cơ toàn thân trung bình. Có thể có ảnh hưởng mắt hoặc hầu họng. Có thể ảnh hưởng các cơ hô hấp
IV Yếu cơ toàn thân nặng. Có thể ảnh hương mắt hoặc hầu họng. Có ảnh hương các cơ hơ hấp
V Phải đặt nội khí quản, cần hoặc không cần giúp thở

3. Ưu điểm của phân loại độ nặng nhược cơ theo Osserman cải tiến

Ưu điểm của phân loại độ nặng nhược cơ theo Osserman cải tiến bao gồm:

– Dễ sử dụng: Phân loại này dựa trên các triệu chứng nhược cơ cơ bản và dễ hiểu, giúp các bác sĩ đánh giá mức độ nặng của bệnh một cách nhanh chóng và dễ dàng.

– Hữu ích để đưa ra quyết định điều trị: Các nhóm của phân loại này có thể giúp bác sĩ đưa ra quyết định điều trị phù hợp với từng bệnh nhân, nhằm cải thiện triệu chứng nhược cơ và tăng khả năng hoạt động hàng ngày.

– Tương đối đầy đủ: Phân loại này chia nhược cơ thành năm nhóm, bao gồm tất cả các mức độ nặng từ không có triệu chứng đến nhược cơ nặng.

4. Hạn chế

Phân loại độ nặng nhược cơ theo Osserman cải tiến cũng có một số hạn chế như:

– Không đánh giá được các triệu chứng khác: Phân loại này chỉ dựa trên triệu chứng nhược cơ, không đánh giá được các triệu chứng khác, như đau, bất thường cảm giác và bất thường vận động.

– Không phản ánh sự thay đổi của bệnh trong thời gian: Phân loại này chỉ đưa ra một bức tranh chung về mức độ nặng của bệnh tại một thời điểm, không phản ánh được sự thay đổi của bệnh trong thời gian.

– Không phân biệt được nguyên nhân của nhược cơ: Phân loại này không phân biệt được nguyên nhân của nhược cơ, có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau như bệnh thần kinh, bệnh cơ hoặc bệnh liên quan đến cả hai nguyên nhân này.

Tóm lại, phân loại độ nặng nhược cơ theo Osserman cải tiến là phương pháp đánh giá mức độ nặng của bệnh thần kinh cơ bản dựa trên các triệu chứng nhược cơ. Phân loại này có những ưu điểm như dễ sử dụng, hữu ích để đưa ra quyết định điều trị và tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, phân loại này cũng có những hạn chế như không đánh giá được các triệu chứng khác, không phản ánh sự thay đổi của bệnh trong thời gian và không phân biệt được nguyên nhân của nhược cơ.

Nguồn tham khảo: Thần kinh học – ĐH Y TP Hồ Chí Minh


Posted

in

,

by

Tags:

Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *