Vấn đề xác định chiều dài làm việc (WL) trong điều trị Nội nha.

Với kiến thức về giải phẫu ống tủy, định vị và định lượng tất cả các ống tủy, thiết lập và duy trì chiều dài làm việc thích hợp trong suốt quá trình điều trị nội nha, các bác sĩ lâm sàng hoàn toàn có thể mong đợi kết quả điều trị tốt nhất cho bệnh nhân. Bài viết này đề cập một cách tổng quan việc xác định chiều dài làm việc trong quá trình điều trị nội nha, nhằm giảm thiểu, hạn chế những vấn đề liên quan đến kết quả điều trị và tiên lượng bệnh nhân. Cùng tìm hiểu.

1. Tổng quan về chiều dài làm việc trong quá trình điều trị Nội nha

Chiều dài làm việc (working length – WL) được định nghĩa là khoảng cách từ một điểm tham chiếu ở thân răng đến điểm tận cùng mà việc sửa soạn và trám bít ống tủy kết thúc tại đó. Lý tưởng nhất là việc sửa soạn và trám bít nên giới hạn ở vị trí sinh lý thích hợp trong lòng ống tủy để đạt được kết quả tốt nhất. Điều thú vị là vị trí chính xác của điểm kết thúc việc sửa soạn và trám bít ống tủy vẫn còn được tranh luận qua hàng thập kỷ. Tuy nhiên, nếu điểm kết thúc của vật liệu trám bít quá ngắn hoặc quá dài so với chóp răng trên phim X quang thì kết quả không khả quan. Nhiều nghiên cứu đồng ý rằng đối với răng tủy sống, điểm dừng của dụng cụ và chất trám bít nên ngắn hơn lỗ chóp. Đối với những răng hoại tử tủy kèm viêm quanh chóp, giới hạn phía chóp được khuyến cáo là gần chóp răng trên phim. Thực tế cho thấy, mất mỗi mm chiều dài làm việc (tính từ chóp răng trên phim) thì tỷ lệ thất bại tăng lên khoảng 14% hoặc 12%.

2. Vấn đề xác định chiều dài làm việc trong điều trị Nội nha

Trước đây, điểm thắt chóp (foramen nhỏ) dường như là một vị trí thích hợp để kết thúc việc sửa soạn và trám bít ống tủy. Nó được định nghĩa là phần hẹp nhất của ống tủy và nằm ở vị trí ngắn hơn foramen lớn. Tuy nhiên, điểm thắt chóp này chỉ xác định được trong ít hơn 50% số răng nghiên cứu, và phần ống tủy đoạn chóp song song thì thấy thường xuyên hơn. Nghiên cứu gần đây sử dụng phân tích micro – CT đoạn thắt chóp (đường nối ngà – cement) (apical constriction — AC) trên những răng cối lớn đã nhổ nhận thấy:

  1. Tất cả các ống tủy được kiểm tra đều thấy một AC.
  2. Hình dạng phổ biến nhất của AC được tìm thấy là song song.
  3. AC rất gần với lỗ chóp (apical foramen – AF) (0.2 mm).
  4. Kích thước của AC ở các răng cối lớn tương ứng trâm số 30. Bệnh nhân trẻ có AC lớn hơn đáng kể.
  5. Vị trí của AF ngắn hơn so với chóp răng trên phim trong 88% các ống tủy; AF ngắn hơn 2 mm so với chóp răng giải phẫu trong 5% các ống tủy.
  6. Khoảng cách trung bình của AC so với chóp răng trên phim là 0,9 mm.
  7. Trong 68% các ống tủy, khi khoảng cách của AC so với chóp răng trên phim ngắn hơn hoặc dài hơn 0,5 mm so với khoảng cách trung bình (như đã nêu trong mục số 6), thì cho thấy việc xác định điểm thắt chóp bằng phim X quang có thể chính xác chỉ trong 32% các ống tủy.

Ngoài ra, lỗ foramen lớn, được định nghĩa như là phần chóp mở rộng nhất của chân răng, thì thấy nó không nằm ở vị trí chóp răng giải phẫu trong khoảng 60- 80% răng được nghiên cứu và nó có thể được tìm thấy ở cách chóp răng giải phẫu trong khoảng từ 0 đến 3 mm.

Các nghiên cứu kết quả điều trị nội nha đánh giá chiều dài trám bít trong mối tương quan với chóp răng trên phim, không nhất thiết tương ứng với lỗ chóp lớn. Tuy nhiên, dường như tất cả các kết quả nghiên cứu, không có ngoại lệ, đều đồng ý rằng sự quá mức của vật liệu trám bít sẽ gây ảnh hưởng xấu đến kết quả điều trị.

Rõ ràng việc xác định chiều dài làm việc thích hợp và duy trì nó rất quan trọng để đạt được kết quả tốt nhất. Do chiều dài làm việc trên phim không chính xác trong việc xác định vị trí của điểm thắt chóp hay lỗ chóp (foramen), nên các phương pháp khác, chẳng hạn như máy định vị chóp điện tử (electronic apex locator – EAL) và phương pháp đo lường bằng cone giấy (paper point measurement – PPT) ngày càng trở nên quan trọng trong thực hành lâm sàng.

xac-dinh-chieu-dai
Hình ảnh sàn tủy của răng cối lớn minh họa bản đồ màu sắc. Có 3 lỗ tủy gần ngoài riêng biệt. Các miệng ống tủy được quan sát thấy tại chỗ nối của sàn tủy tối màu và các thành buồng tủy có màu sáng hơn.

Một nghiên cứu in vivo gần đây đã so sánh độ chính xác của việc xác định chiều dài làm việc giữa EAL với phim X quang, trên 482 ống tủy ở 160 răng ở hàm trên và hàm dưới. Sau khi nhổ, vị trí chính xác của điểm thắt chóp được xác định bằng cách quan sát trực tiếp. Kết quả cho thấy rằng khi đo chiều dài bằng máy định vị chóp thì sai lệch khoảng ± 0,5 mm so với lỗ chóp nhỏ (điểm thắt chóp) ở 100% trường hợp, trong khi đối với phim X quang, kết quả đo nằm trong khoảng này chỉ trong 15% trường hợp. Điều này cho thấy việc sử dụng đúng máy định vị chóp sẽ cho phép xác định chiều dài làm việc chính xác hơn so với phim cận chóp.

Nguồn: Clinical Guide for Optimal Treatment Outcome – Springer International Publishing Switzerland 2017


Posted

in

,

by

Tags:

Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *