Vai trò vi khuẩn trong bệnh lý Nội nha.

Các kĩ thuật hiện tại để loại bỏ hoặc giảm thiểu lượng vi khuẩn trong hệ thống ống tủy bao gồm sửa soạn cơ học, bơm rửa ống tủy với tác nhân kháng khuẩn và băng thuốc nội tủy. Điều quan trọng là quá trình trám bít ống tủy và sau đó là trám kín thân răng sẽ ngăn ngừa được sự xâm nhập của các vi khuẩn mới. Tuy nhiên, ngay cả khi đã được điều trị hợp lý, một vài chủng vi khuẩn vẫn có thể tồn tại trong lòng ống tủy gây ra viêm quanh chóp với đau dai dẳng và đôi khi là đau bùng phát. Bài viết này nhằm đánh giá và nhìn nhận lại vai trò Vi khuẩn trong bệnh lý Nội nha. Cùng tìm hiểu.

1. Vai trò của vi khuẩn trong bệnh lý nội nha

Sự xâm nhập của vi khuẩn vào hệ thống ống tủy sẽ gây ra các bệnh lý về sau của mô tủy và mô quanh chóp. Mục tiêu cuối cùng của việc điều trị nội nha là sửa soạn hệ thống ống tủy bằng cơ – hóa học, bao gồm việc làm sạch, tạo hình và khử trùng, cũng như bịt kín ống tủy, do đó tạo điều kiện cho sự lành thương của mô quanh chóp bị bệnh. Nhiễm trùng nội nha nguyên phát là do nhiều loại vi khuẩn, mà chủ yếu là vi khuẩn gram âm kị khí như Prevotella ssp., Porphyromonas ssp., Treponema ssp., và Fusobacterium ssp. Nhiễm trùng nội nha có thể lan rộng ra ngoài hệ thống ống tủy, gây ra viêm nhiễm tại chỗ, sưng nề mô mềm răng lân cận và hiếm gặp hơn là viêm mô tế bào lan tỏa.

Như vậy, khử trùng ống tủy là một yếu tố cơ bản để đạt được điều trị nội nha thành công. Các kĩ thuật hiện tại để loại bỏ hoặc giảm thiểu lượng vi khuẩn trong hệ thống ống tủy bao gồm sửa soạn cơ học, bơm rửa ống tủy với tác nhân kháng khuẩn và băng thuốc nội tủy. Điều quan trọng là quá trình trám bít ống tủy và sau đó là trám kín thân răng sẽ ngăn ngừa được sự xâm nhập của các vi khuẩn mới. Tuy nhiên, ngay cả khi đã được điều trị hợp lý, một vài chủng vi khuẩn vẫn có thể tồn tại trong lòng ống tủy gây ra viêm quanh chóp với đau dai dẳng và đôi khi là đau bùng phát. Một vài bệnh nhân có thể trải qua cơn đau bùng phát do nhiễm trùng nội nha chỉ trong vòng vài giờ hoặc vài ngày sau điều trị. Tỉ lệ đau bùng phát sau điều trị nội nha rất thay đổi, từ thấp 1.5% đến cao 20%.

2. Thành phần vi khuẩn trong nhiễm trùng

Thành phần của vi khuẩn trong nhiễm trùng thứ phát hoặc tái phát ở các răng đã được điều trị trước đó khác với thành phần được thấy ở những răng chưa điều trị. Vi khuẩn gram dương thường gặp hơn vi khuẩn gram âm và là thành phần chủ yếu nhất của nhiễm trùng nguyên phát, thường đã được loại bỏ. Các vi khuẩn thường gặp gồm các cầu khuẩn, Parvimonas micra, các loài Actinomyces, các loài Propionibacterium, Pseudoramibacter alactolyticus, Lactobacillus và Enterococcus faecalis. Enterococcus faecalis là loại thường gặp nhất trong những trường hợp điều trị thất bại.

vai-tro-vi-khuan-1
(a) Hình ảnh theo chiều dọc của một răng đã nhổ bị hoại tử tủy, với 1 trâm tay đặt đúng chiều dài làm việc. (b) Một cụm vi khuẩn bao gồm chủng Enterococcus faecalis trong một hốc ở thành ống tủy. Các vi khuẩn tập hợp lại và một số xâm nhập vào ống ngà. Hình ảnh quét kính hiển vi điện tử, với độ phóng đại x3500. (c) Hình ảnh sử dụng kính hiển vi quét laser ở các ống ngà với Enterococcus faecalis. Những mảnh vụn này được nhuộm bằng thuốc nhuộm màu Live/Dead, cho thấy vi khuẩn còn sống thì bắt màu xanh lá cây.

Các bằng chứng hiện tại cho thấy ‘ sau Enterococcus faecalis và Actinomyces thì Candida albicans là những vi khuẩn phổ biến nhất liên quan đến điều trị nội nha thất bại. Dường như chúng có thể ẩn náu và xâm nhập vào ngà răng và có khả năng đề kháng với calcium.

vai-tro-vi-khuan-2
(a) Các ống ngà của thành ống tủy chứa đầy vi khuẩn gồm các cầu khuẩn (cocci) dọc theo đường đi của chúng đến tủy răng, sau khi sửa soạn cơ học bằng trâm tay. (b) Răng cối lớn hàm dưới đã nhổ, cắt dọc răng. Hình ảnh quét kính hiển vi điện tử, độ phóng đại x1500.

Sự hiện diện của vi sinh vật trong hệ thống ống tủy cũng là nguyên nhân gây ra bệnh lý viêm quanh chóp. Vi khuẩn và độc tố của chúng có thể xâm nhập vào vùng mô quanh chóp gây ra viêm, mức độ nghiêm trọng thì phụ thuộc vào độc tính và số lượng vi sinh vật hiện diện.

vai-tro-vi-khuan-3
(a) Hình ảnh quét trên kính hiển vi điện tử một trâm tay sau khi đi qua lỗ chóp, mang theo mùn ngà từ thành ống tủy. Độ phóng đại x120. (b) Hình ảnh sử dụng kính hiển vi huỳnh quang của lớp mùn với Candida albicans. Những mảnh vụn này được nhuộm màu với thuốc nhuộm màu Live/Dead, cho thấy những vi khuẩn sống thì bắt màu xanh lá và vi khuẩn chết thì bắt màu đỏ (c).

Trong trường hợp viêm quanh chóp có triệu chứng thì các chủng vi khuẩn chủ yếu được tìm thấy là Parvimonas micra, Eubacterium, Porphyromonas endodontalis, Porphyromonas gingivalis, Prevotella, và đặc biệt là “vi khuẩn sắc tố đen” (black pigmented bacteria) thu hút nhiều sự chú ý. Đối với giải phẫu ống tủy phức tạp ở vùng chẽ, eo thắt, delta chóp và ở các ống tủy phụ thì việc loại bỏ hoàn toàn vi khuẩn vẫn là một khó khăn. Người ta thấy có mối liên hệ rõ ràng giữa sự tồn tại dai dẳng của lượng lớn vi khuẩn, độc tố của chúng, đau khi sờ nắn, sự rỉ dịch và lượng TNF-α, IL-1β.

Nguồn: Clinical Guide for Optimal Treatment Outcome – Springer International Publishing Switzerland 2017


Posted

in

,

by

Tags:

Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *