Bài viết này tổng quan về phương pháp điều trị tuỷ bảo tồn, kèm theo đó là quy trình trám bít tương hợp sinh học với vật liệu phục hồi trong quy trình điều trị nội nha tái sinh. Cuối cùng, bài viết đưa ra nhìn nhận chung về phương pháp điều trị nội nha này. Cùng tìm hiểu rõ hơn ở bài viết dưới đây.
1. Điều trị tủy bảo tồn
Những hướng dẫn điều trị sau đây là cho che tủy trực tiếp và lấy tủy buồng. Sau khi chẩn đoán phân biệt, răng được gây tê tại chỗ, cách ly bằng để cao su và khử trùng phần thân răng bằng NaOC1 5.25 – 8.25% hoặc chlorhexidin 2 %. Mảnh vụn mô mềm được loại bỏ bằng nạo ngà; một tay khoan high – speed với mũi khoan kim cương hoặc mũi khoan carbide được sử dụng để loại bỏ lớp men bị suy yếu. Chiếu đèn và sử dụng dụng cụ phóng đại được khuyến khích trong quá trình loại bỏ mô răng sâu.
- Việc loại bỏ mô răng sâu còn được hỗ trợ bằng sử dụng thuốc nhuộm phát hiện sâu răng, dùng nạo ngà và tay khoan low – speed, mũi khoan tròn carbide số 2 – 6 cho đến khi không còn màu hoặc chỉ còn màu hồng nhạt.
- Tùy thuộc vào mức độ liên quan và xâm nhập đến tủy răng mà bác sĩ phải đánh giá độ lành mạnh của mô còn lại và xác định khả năng bảo tồn mô tủy hay là phải loại bỏ. Nếu ở vị trí lộ, tủy răng còn lành mạnh thì có thể thực hiện che tủy trực tiếp sau khi cầm máu. Tuy nhiên với lấy tủy buồng bán phần hoặc lấy tủy buồng toàn bộ thì mô hoại tử phải được loại bỏ cho đến khi chỉ còn mô lành mạnh, bằng tay khoan high – speed với mũi khoan tròn và tay xịt nước.
- Kiểm soát cầm máu bằng cách đặt gòn ẩm tẩm NaOCl 5.25 – 8.25% với thời gian tiếp xúc từ 1 – 10 phút. Nếu sau 10 phút vẫn không cầm máu hoặc trần tủy còn lại bị lấy đi trong quá trình nạo ngà thì chỉ định lấy tủy buồng toàn bộ hoặc lấy tủy buồng.
- NaOCl dư nên được xịt nước để loại bỏ sạch, ngà răng được thổi khô nhẹ nhàng trước khi đặt cement calcium silicate-based tương hợp sinh học. Vật liệu được trộn theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Vật liệu được đặt trực tiếp lên vị trí tủy lộ và chủ yếu là xung quanh ngà răng kế cận đối với thủ thuật lấy tủy buồng bán phần hoặc lấy tủy buồng toàn bộ. Đặt cement calcium silicate-based tương hợp sinh học nên giới hạn độ dày vào khoảng 1.5 – 2 mm trong che tủy trực tiếp và dày hơn khi bắt đầu thực hiện lấy tủy buồng bán phần hoặc lấy tủy buồng toàn bộ. Cement calcium silicate-based tương hợp sinh học có thể được nhồi ép xuống bằng một cục gòn ẩm trong quá trình đặt.
- Với cement calcium silicate-based tương hợp sinh học tác dụng chậm, gòn ẩm hoặc gạc có thể được đặt lên trên lớp vật liệu và đặt vật liệu trám tạm với kĩ thuật 2 bước (two-step technique). Bệnh nhân sau đó sẽ được đánh giá lại ở lần hẹn thứ 2, xác định độ sống của tủy bằng test thử lạnh trong thủ thuật che tủy trực tiếp và lấy tủy buồng bán phần, sau khi chắc chắn thì tiến hành trám kết thúc.
- Khi sử dụng cement calcium silicate-based tương hợp sinh học tác dụng nhanh, cement glass ionomer dạng nhựa lỏng được sử dụng để phủ lên trên lớp cement calcium silicate-based tương hợp sinh học đã cứng, rồi tiến hành trám kết thúc trong cùng một lần hẹn. Phương pháp này cũng có thể áp dụng cho cement calcium silicate-based tương hợp sinh học tác dụng chậm, nhưng như vậy có thể gây khó khăn khi có một lượng lớn cement calcium silicate-based tương hợp sinh học chưa đông cứng được sử dụng. Trám kết thúc bằng composite theo hướng dẫn của nhà sản xuất với sử dụng để cao su được ưa thích hơn là trám amalgam.
- Xquang theo dõi, test thử lạnh và các triệu chứng chủ quan nên được đánh giá 6 tháng và 12 tháng sau điều trị che tủy trực tiếp và lấy tủy buồng bán phần, và mỗi năm sau đó nếu có thể. Đối với răng vĩnh viễn chưa trưởng thành, bệnh nhân nên được theo dõi để đánh giá sự phát triển của chân răng. Đối với lấy tủy buồng toàn bộ, răng nên được đánh giá bằng Xquang để xác định không có bệnh lý quanh chóp hoặc triệu chứng sau 6 và 12 tháng, tiếp tục theo dõi mỗi năm để đánh giá sự đóng chóp.
2. Trám bít ống tủy với cement calcium silicate-based tương hợp sinh học
Thủ thuật gây đóng chóp (apexifcation) đối với răng không còn tủy có lỗ chóp mở yêu cầu gây tê tại chỗ, cô lập tốt và sửa soạn ống tủy tối thiểu. Đây là một lựa chọn điều trị hợp lý trước những khó khăn khi kiểm soát hành vi ở những bệnh nhân trẻ em. Chiều dài làm việc được ghi nhận, với sự hỗ trợ của Xquang. Bơm rửa thụ động với NaOCl 1.5% trong 15 – 20 phút được khuyến cáo và thông suốt dọc theo thành ống tủy bằng một file K số lớn vì mở rộng kích thước ống tủy là không cần thiết.
- Sau khi ống tủy được làm khô bằng cone giấy số lớn, cement bioceramic hoặc cement calcium silicate-based tương hợp sinh học có thể được đặt với cây nhồi MTA hoặc cây nhồi amalgam và cement được nén chặt xuống ống tủy bằng cách sử dụng đầu trên của một cone giấy số lớn, cone Gutta percha, đầu nhồi nội nha hoặc dụng cụ Glick. Dùng một file K số lớn để nhồi cement calcium silicate-based tương hợp sinh học về phía chóp với áp lực nhẹ nhàng để tránh cement quá chóp. Mặc dù việc cement calcium silicate-based tương hợp sinh học dư không làm ảnh hưởng đến kết quả điều trị.
- Nhà lâm sàng nên thao tác cẩn thận khi sử dụng thiết bị siêu âm với đầu nhồi nội nha để nhồi MTA hoặc các loại cement calcium silicate-based tương hợp sinh học khác, vì cement quá chóp là một trở ngại thường gặp đối với những răng có lỗ chóp mở. Người ta thấy rằng việc nhồi MTA như bình thường vẫn cho kết quả chặt, và có thể được ưa thích hơn kĩ thuật nhồi siêu âm.
- Khi không kiểm soát được cầm máu thì phải đặt một lượng lớn cement calcium silicate-based tương hợp sinh học và nhồi thật nhanh. Có thể nhồi một lượng lớn cement vào trong ống tủy bằng cách sử dụng dụng cụ Glick hoặc bằng đầu nhồi amalgam.
- Sử dụng một viên gòn khô có hoặc không tẩm bột calcium hydroxide hoặc đầu trên của một cone lớn áp lên lớp cement calcium silicate-based tương hợp sinh học với một áp lực trung bình cho đến khi cầm máu và cement cứng chắc. Trong trường hợp vẫn không cầm máu được thì nên trám kín ống tủy bằng Ca(OH)2 và bệnh nhân sẽ được lên lịch hẹn trám cement calcium silicate-based tương hợp sinh học vào lần sau.
- Nên chụp một phim Xquang kiểm tra sau khi đặt cement calcium silicate-based tương hợp sinh học để đánh giá mật độ và vị trí của cement calcium silicate-based tương hợp sinh học so với tương quan chóp. Khi kết thúc điều trị thì kết quả lý tưởng nhất là cement calcium silicate-based tương hợp sinh học được nhồi xuống 4–5 mm, để đảm bảo bịt kín tốt.
- Nếu thấy kết quả đặt cement calcium silicate-based tương hợp sinh học đã chấp nhận được thì lượng cement calcium silicate-based tương hợp sinh học dư có thể được rửa sạch bằng nước cất, sử dụng kim có lỗ thoát mặt bên và khoảng ống tủy còn lại sẽ được lau khô bằng cone giấy số lớn. Lượng cement được làm phẳng bằng một đầu nhồi và ống tủy được trám bằng phương pháp lèn dọc Gutta percha nóng. Kết quả điều trị là tốt nhất khi các lỗ vào ống tủy đã được trám kín bằng vật liệu composite.
- Xquang theo dõi để đánh giá sự đóng chóp và sự lành thương quanh chóp được khuyến cáo là sau điều trị 6 và 12 tháng, và tiếp tục hàng năm hoặc 2 năm một lần.
3. Tổng kết lại
Trong những năm gần đây, với sự quan tâm nhiều đến việc duy trì sự sống của tủy răng, một số phát minh quan trọng đã góp phần vào sự tiến bộ của các phương pháp tái tạo trong nội nha. Trước hết phải kể đến, là sự ra đời của các vật liệu có tính tương hợp sinh học và vững ổn về kích thước như MTA và các cement calcium silicate-based tương hợp sinh học khác, cho phép sửa chữa, bảo tồn và tái tạo một phần hay toàn bộ mô tủy.
Các đặc trưng nội nha hiện đang được xác định để tiến xa hơn nữa so với các liệu pháp điều trị tủy thông thường và mở ra các chiến lược trong tương lai về điều trị tủy bảo tồn và công nghệ sinh học. Những con đường đi mới này tập trung vào các nghiên cứu và thử nghiệm lâm sàng với mục tiêu chính là bảo tồn tủy sống và tái tạo mô tủy răng ở những răng chết. Những sự phát triển này phù hợp với tiến bộ chủ yếu trong công nghệ bám dính và việc giới thiệu các vật liệu phục hồi vĩnh viễn và vật liệu sinh học đáng tin cậy để bịt kín và thúc đẩy sự bảo vệ mô tủy. Bằng các phương pháp điều trị kết hợp dựa trên kĩ thuật tế bào và sự tiến bộ của vật liệu sinh học, đã giúp mở ra một cuộc cách mạng mới trong việc khôi phục, duy trì, tái tạo mô tủy răng về mặt chức năng. Và cuối cùng, sinh học mô tủy và liệu pháp điều trị nội nha đang có những bước tiến song song nhau.
Nguồn: Clinical Guide for Optimal Treatment Outcome – Springer International Publishing Switzerland 2017
Leave a Reply