Đối với trường hợp răng chưa đóng chóp, việc điều trị bảo tồn đóng vai trò quan trọng trong quá trình lành thương và kích thích đóng chóp. Việc điều trị tuỷ đúng giúp hạn chế tổn thương về sau, đảm bảo sự lành mạnh hệ thống mô tuỷ và mô quanh chóp. Cùng tìm hiểu các phương pháp ở bài viết dưới đây.
1. Che tủy trực tiếp trên răng chưa đóng chóp
Thủ thuật này yêu cầu đặt 1 loại vật liệu có hoạt tính sinh học lên vùng tủy bị lộ và không có sự loại bỏ mô tủy. Sự tiến bộ về vật liệu nha khoa và kĩ thuật lâm sàng đã làm thay đổi nhận thức rằng, tủy răng là một “cơ quan bị hư hại” khi bị lộ do sâu răng.
Những thành công bước đầu của che tủy trực tiếp đã được ghi nhận trong các nghiên cứu và thử nghiệm lâm sàng độc lập, với vật liệu che tủy sử dụng là cement calcium silicate-based tương hợp sinh học thay vì là Ca(OH)2, cement glass ionomer lai nhựa hoặc nhựa háo nước (hydrophilic resin). Cement calcium silicate dường như đáng tin cậy trong việc thúc đẩy sự hình thành cầu ngà sửa chữa bằng cách kích thích sự biệt hóa của tế bào gốc tuỷ răng hoặc các tế bào tiền thân của tủy răng vào các tế bào giống như nguyên bào ngà (odontoblast-like cell) mới tạo ra, thông qua một quá trình sinh học phức tạp bao gồm sự chọn lựa, tăng sinh và di cư như được minh họa trong hình dưới đây.
Mặc dù nguồn gốc và tính đặc hiệu của các tế bào tạo mô cứng mới chưa được biết rõ, nhưng những phân tích mô học gần đây về che tủy trực tiếp trên răng người sử dụng Ca(OH)2, cho thấy hàng rào mô cứng sửa chữa tạo ra từ vị trí tổn thương của các nguyên bào ngà có thể là sản phẩm cuối cùng của các nguyên bào sợi ở mô tủy hơn là do sự biệt hóa hình thể của các tế bào giống nguyên bào ngà (odontoblast-like cell). Việc kiểm tra các mô cứng được tạo thành cho thấy các mô khoáng hóa trong những ống ngà khiếm khuyết có chứa mảnh vụn mô hoại tử, tương tự với sạn tủy được hình thành từ sự vôi hóa ngắt quãng.
2. Che tủy gián tiếp
Thủ thuật này bảo tồn các nguyên bào ngà gốc để kích thích sự hình thành của ngà phản ứng (ngà thứ ba) bằng cách làm tăng sinh các tế bào trong trường hợp lỗ sâu lớn và để tránh lộ tủy. Việc thực hiện có thể bằng kĩ thuật bậc thang (stepwise) (hai lần hẹn) hoặc kĩ thuật one — step bằng cách để lại mô răng sâu tự tái khoáng hóa sau khi đặt vật liệu che tủy và trám kết thúc. Những nghiên cứu về che tủy gián tiếp cho thấy kết quả rất khả quan đối với những bệnh nhân trẻ tuổi; tuy nhiên việc điều trị tương đối gây nhạy cảm, sâu răng tái phát và/hoặc mất lượng ngà trong quá trình điều trị là những bất lợi tiềm tàng.
3. Lấy tủy buồng bán phần và toàn phần
Cả hai kĩ thuật đều đòi hỏi loại bỏ mô tủy dựa trên triệu chứng lâm sàng của mô tủy lành mạnh còn lại hoặc mức độ và vị trí nứt gãy răng trong trường hợp chấn thương. Khi răng lộ tủy, mô tủy bị viêm hoặc hoại tử sẽ được loại bỏ cho đến vị trí mô tủy lành mạnh, và đặt vật liệu che tủy trong khi vẫn để lại một phần mô tủy buồng lành mạnh, đối với lấy tủy buồng bán phần. Còn đối với lấy tủy buồng toàn bộ, mô tủy trong buồng tủy được loại bỏ hoàn toàn cho đến sàn tủy ở răng sau nhằm thúc đẩy quá trình đóng chóp ở những răng của người trẻ. Loại bỏ một phần mô tủy (3 – 4 mm) đối với răng trước có chấn thương còn được gọi là kĩ thuật Cvek.
Kĩ thuật này được thực hiện dựa trên papilla chóp và lượng tế bào gốc tuỷ răng còn lại nhằm thành lập cầu ngà sửa chữa và tiếp tục quá trình đóng chóp. Người ta thấy thủ thuật được thực hiện có hiệu quả khi sử dụng vật liệu cement calcium silicate-based tương hợp sinh học cho cả trẻ em và người lớn, ngay cả khi răng được chẩn đoán là viêm tủy không có khả năng hồi phục.
Tất cả các kĩ thuật của điều trị tủy bảo tồn đều dựa vào khả năng hồi phục tiềm tàng của mô tủy dưới những điều kiện lâm sàng khác nhau. Lựa chọn điều trị phụ thuộc vào mức độ viêm, khả năng cầm máu khi sử dụng cement calcium silicate-based tương hợp sinh học để thúc đẩy sự tái lập mô cứng và đóng chóp. Bảo tồn tủy răng một phần hoặc toàn bộ có thể coi là một kĩ thuật tiên tiến so với những lựa chọn điều trị nội nha triệt để. Trong trường hợp viêm tủy không có khả năng hồi phục, lấy tủy buồng toàn bộ có thể là một biện pháp đáng tin cậy đối với những bệnh nhân lớn tuổi và điều quan trọng nhất là, kết quả cuối cùng của tất cả các kĩ thuật điều trị tủy bảo tồn phụ thuộc vào chất lượng và độ bịt kín của phục hồi cuối cùng.
Nguồn: Clinical Guide for Optimal Treatment Outcome – Springer International Publishing Switzerland 2017
Leave a Reply