Viêm quanh Implant – Yêu cầu vệ sinh hàng ngày trong kiểm soát.

Sau phẫu thuật, việc kiểm soát bệnh lý viêm quanh Implant là đặc biệt quan trọng đối với tuổi thọ và chất lượng phục hình của bệnh nhân. Ngoài ra, bài viết này còn nêu ra những yêu cầu trong quá trình vệ sinh hàng ngày để Nha sĩ có thể nắm bắt, sau đó tiến hành dặn dò bệnh nhân và nhắc nhở những điều còn thiếu sót. 

1. Kiểm soát bệnh lý viêm quanh Implant

Viêm quanh implant được giải quyết theo cách tương tự như sang thương nha chu của răng, bằng cách cải thiện kiểm soát mảng bám của bệnh nhân, thực hiện việc nạo sạch mô viêm dưới nướu quanh bề mặt implant và tiến hành phẫu thuật đối với những sang thương không đáp ứng với cách điều trị trước. Sự nạo bỏ mô viêm quanh bề mặt implant có thể gặp khó khăn do bề mặt implant là mặt nhám, có ren, và đường vào giới hạn do thiết kế các cấu trúc trên implant. Các dụng cụ bằng kim loại tiêu chuẩn được khuyên không nên sử dụng vì có thể gây hại cho bề mặt implant. Tuy nhiên đối với một implant viêm nhiễm nặng với nhiều mảng bám vi khuẩn thì lời khuyên trên lại không thực tế. Những dụng cụ như đầu siêu âm hay cây nạo có thiết kế đặc biệt được phát minh. Những dụng cụ khác như mũi khoan kim cương mịn, chổi titanium và laser thường đòi hỏi đường vào thông thoáng được tạo ra bằng phẫu thuật. Trong quá trình phẫu thuật, niêm mạc sừng hóa được bảo tồn tối đa bằng cách sử dụng đường rạch bờ vát trong để phân tách mô sừng hóa khỏi mô viêm bên dưới nó, tiếp theo là đường rạch tới xương, bóc tách mô mềm bộc lộ vùng xương bình thường kế cận. Mô viêm xung quanh implant sẽ được loại bỏ hoàn toàn.

viem-quanh-implant-2
(A) Một case lâm sàng cho thấy viêm mô mềm rõ rệt có liên quan tới viêm quanh implant. (B) Bộc lộ bằng phẫu thuật vùng implant bị ảnh hưởng cho thấy tiêu xương lộ đầu implant. (C) Nạo bỏ mô mềm quanh bề mặt implant, vạt được đặt về phía chóp và khâu lại. (D) Kết quả lành thương với mô mềm khỏe mạnh và dễ vệ sinh hơn.
viem-quanh-implant-3
Loạt hình minh họa cho viêm quanh implant liên quanh tới implant răng cửa giữa hàm trên. (A) Hai răng cửa giữa là mão trên implant. Bệnh nhân đã lưu ý tới nướu sưng và đổi màu. Bệnh nhân bị tiểu đường và không có kiểm soát tốt. Implant đã được làm trước đó bốn năm. (B) Phim trong miệng thể hiện tiêu xương lan rộng trên cả hai implant. Implant bên phải tiêu xương trên 50% chiều dài implant, bên trái tiêu xương tới vị trí ren lớn đầu tiên. Sự tiêu xương dạng máng khá phù hợp với sang thương viêm quanh implant. Hình ảnh đỉnh xương mỏng tồn tại ở đường giữa. (C) Mức xương đang ở phần chóp implant. Kiểm tra túi nha chu cho thấy độ sâu túi tối thiểu là 8mm kèm theo chảy máu và mủ. (D) Vạt trong và ngoài được lật lên và mô bệnh bị loại bỏ bộc lộ vùng xương bị tiêu phù hợp hình ảnh x quang. Vệ sinh khởi đầu trên bề mặt implant được thực hiện. Xi măng dư tìm được nhiều xung quanh abutment và đầu implant. (E) Sau khi nạo sạch hoàn toàn mô bệnh trên bề mặt, mô mềm được đặt về phía chóp. (F) Kết quả lành thương sau 2 tuần. Có một vài sự co rút về phía chóp của mô mềm nhưng không còn viêm nhiễm hay chảy dịch nữa.

Khó khăn chính là việc khử khuẩn thỏa đáng trên bề mặt implant. Điều này có thể hoàn toàn thực hiện được trên bề mặt tương đối trơn láng nhưng gần như không thể đối với bề mặt lỗ rỗ như bề mặt TPS (bề mặt phun tinh thể titanium). Do đó những bề mặt thô nhám yêu cầu việc nạo bỏ mô viêm kỹ lưỡng hơn bề mặt trơn láng. Có thể phải dùng mũi khoan để loại bỏ lớp thâm nhiễm, và khử khuẩn bằng dung dịch sát khuẩn tại chỗ như chlorhexidine, kháng sinh tại chỗ. Những sang thương quanh implant có thể không phổ biến một cách đầy đủ để cho phép chúng ta so sánh hiệu quả làm sạch của những phương thức khác nhau. Trong nhiều trường hợp, mô mềm bị viêm có thể được giải quyết và có tạo lại xương một ít. Một số nhà lâm sàng cố gắng tái tạo xương mất bằng các kỹ thuật tái sinh xương có hướng dẫn nhưng hầu hết các nghiên cứu đã kết luận sự tích hợp xương có vẻ không xảy ra.

2. Những yêu cầu duy trì vệ sinh răng miệng hàng ngày

2.1. Những phục hình răng đơn lẻ

Những bệnh nhân có bộ răng khỏe mạnh và chỉ có một implant đơn lẻ thì có kế hoạch bảo trì đơn giản và cũng ít có biến chứng. Bệnh nhân có thể duy trì mô mềm quanh implant và mô cứng trong tình trạng khỏe mạnh tương đương với các răng tự nhiên xung quanh.

viem-quanh-implant-5
Một loạt hình ảnh về quá trình duy trì một phục hồi trên implant đơn lẻ (implant Astra tech). (A) Hình ảnh lâm sàng của răng cửa trên bên trái lúc vừa gắn phục hình. (B) Phim x quang tại thời điểm gắn phục hình, mức xương viền ngay đầu implant. (C) Cải thiện mô mềm tuyệt vời sau sáu năm. (D) Sự ổn định của mức xương tại đầu implant sau sáu năm.

Điều này có thể đạt được bằng sử dụng chỉ nha khoa và chải răng thường xuyên. Tuy nhiên trong một vài trường hợp đường viền của phục hình đơn lẻ không lý tưởng và thay vì tạo ra một emergence profile thuận lợi cho việc làm sạch và làm láng, thì vị trí đặt implant không tốt lại có thể gây ra một mức độ chồng lấp trên sống hàm. Điều này đòi hỏi thay đổi kỹ thuật vệ sinh răng miệng để làm sạch bên dưới vùng nhô ra với chỉ nha khoa hoặc dải băng nha khoa bằng cách kéo luồn qua vùng nhô này. Những phục hình đơn lẻ hiếm khi có vôi răng hình thành trên mặt sứ được đắp chất lượng hay bề mặt vàng được đánh bóng tốt do đó hình thức cạo vôi chuyên biệt không được yêu cầu.

2.2. Phục hình tháo lắp và cố định

Trên những bệnh nhân có phục hình cố định phức tạp, sự mở rộng khoang tam giác nướu hợp lý cho việc làm sạch được thực hiện bởi kỹ thuật viên sẽ giúp cho bệnh nhân có thể vệ sinh tốt hơn. Điều này sẽ khó khăn khi implant được đặt tại những vị trí không tốt, khoảng cách các implant quá gần nhau. Sự lựa chọn abutment cũng có tác động đáng kể. Bề mặt abutment titan trơn láng sẽ tốt hơn cho mô mềm. Với những phục hình gắn bằng xi măng thì nên hạn chế việc đặt đường viền quá sâu dưới nướu để dễ gắn xi măng hơn, lấy xi măng dư tốt hơn và đồng thời kiểm tra được tình trạng nguyên vẹn của bờ phục hình.

2.3. Cạo vôi cho phục hình trên implant

Những mảnh vôi dưới nướu thường thấy ở vùng implant răng cửa dưới (thường trên abutment của hàm phủ) nhiều tương tự như răng tự nhiên. Vôi răng nên được loại bỏ khỏi abutment bằng các dụng cụ không gây hại cho bề mặt implant.

Loạt hình ảnh cho thấy quá trình duy trì và đánh giá cầu răng dưới. (A) Phục hình bốn đơn vị vùng răng cửa dưới được nâng đỡ bởi hai implant. Vị trí implant và đường viền mô mềm làm cho bệnh nhân rất khó vệ sinh răng miệng. (B) Thăm khám nha chu cho thấy độ sâu túi không nhiều. (C) Bệnh nhân được hướng dẫn cách thức chải răng hiệu quả. (D) Khoảng giữa răng được chải sạch bằng bàn chải nhỏ. (E) Abutment titan trên nước được làm sạch bằng đầu cạo vôi nhựa. (F) Trường hợp này cần được phòng ngừa cẩn thận vê sau.

Do đó những dụng cụ này được làm bằng nhựa hay composite. Trong hầu hết các trường hợp tại những vùng bệnh nhân có phục hình được tối ưu hóa để tạo mức độ thẩm mỹ cao thì abutment được sử dụng thường có low profile không lộ titan trên nướu và lộ tối thiểu titan vùng dưới nướu thì vấn đề này ít nảy sinh. Dụng cụ đầu kim loại không được sử dụng cho abutment titan.

Nguồn: Implant trong thực hành Nha khoa – Richard D.Palmer/Nhóm dịch Saigon Young Dentists Việt Nam


Posted

in

,

by

Tags:

Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *