Một trong những vấn đề cần lưu tâm đến sau khi tiến hành phẫu thuật cắm Implant cho bệnh nhân chính là lựa chọn Abutment phù hợp, nhằm thuận lợi trong quá trình phục hình về sau. Bài viết này giới thiệu các loại Abutment trên lâm sàng, đồng thời phân tích kỹ về loại Abutment bán điều chỉnh trong Implant nha khoa. Cùng tìm hiểu.
1. Các loại Abutment trên lâm sàng
Các hãng implant sản xuất nhiều loại abutment khác nhau để phục hình một răng đơn lẻ. Abutment kết nối mão răng với implant và chống xoay giữa các thành phần. Nhiều loại abutment khác nhau được sử dụng tùy theo các yếu tố như vị trí implant, góc độ, độ sâu, đường viền mô mềm sao cho kết quả sau cùng vẫn đạt được thẩm mỹ. Phục hình sau cùng cần có hình dạng đúng để nâng đỡ và tạo dạng cho mô mềm. Điều này đòi hỏi sự chuyển tiếp từ đường kính 4mm của implant tiêu chuẩn đến phần cổ rộng 7mm của răng cửa giữa trong một khoảng dọc chỉ vài milimet.
Abutment cần chống chịu tốt với các lực nén, lực căng, lực xoắn do đó không được nối liền abutment với các implant hay các răng khác. Thường có rất ít trường hợp có thể để phục hình lộ kim loại ở đường viền nướu, do đó cần điều chỉnh thiết kế abutment để đặt đường hoàn tất cho thẩm mỹ. Phần lớn các phục hình đơn lẻ vùng răng trước được gắn bằng cement lên abutment, điều này sẽ giải quyết được các vấn đề có thể xảy ra với hướng lắp ở mặt ngoài.
Abutment cho phục hình răng đơn lẻ gồm các nhóm sau:
• Abutment tiêu chuẩn (làm sẵn)
• Abutment bán điều chỉnh
• Abutment tùy biến/tuỳ biến hoàn toàn (abutment cá nhân)
• Abutment CAD/CAM
• Abutment có thể sửa soạn
• Abutment cho mão răng bắt vít
Abutment cũng có thể phân loại theo vật liệu chế tạo như vàng, titanium và sứ. Một số abutment riêng biệt được dùng cả vĩnh viễn lẫn tạm thời. Bài viết này chỉ đề cập đến loại Abutment bán điều chỉnh ở phần dưới đây.
2. Abutment bán điều chỉnh
Loại abutment này cũng tương tự như abutment tiêu chuẩn, tuy nhiên nó có hình dạng giải phẫu nhiều hơn và được thiết kế để có thể điều chỉnh trên labo để tùy biến hình dạng theo các tình huống lâm sàng khác nhau. Khả năng điều chỉnh bị hạn chế theo khối vật liệu ban đầu, do đó các hãng đã sản xuất chúng với nhiều kích thước khác nhau sao cho chỉ cần điều chỉnh tối thiểu mà vẫn phù hợp với phần lớn các tình huống lâm sàng. Điều này có nghĩa là abutment cũng có sẵn các góc độ khác nhau. Các abutment này có đường hoàn tất mặt ngoài sâu hơn ở vùng răng thẩm mỹ và còn có thể điều chỉnh thêm nữa.
Thân abutment có thể giảm chiều dài nhưng không thể đắp thêm được, do đó loại abutment này không phù hợp với các mão răng quá dài. Thiết diện cắt ngang của chúng vẫn là hình tròn, tuy nhiên vẫn có thể điều chỉnh trong một mức độ hạn chế nếu cần thiết.
Cũng giống như những abutment tùy biến khác, việc chọn và thực hiện abutment sửa soạn bán phần cũng được thực hiện trên mẫu hàm của đầu implant. Abutment sửa soạn bán phần gồm hai phần với vít vặn abutment riêng biệt. Nhiều hãng sản xuất có bộ mẫu abutment thử để đơn giản hóa việc lựa chọn abutment. Sau khi đã chọn được abutment, ta vặn abutment đã chọn vào mẫu hàm làm việc, sau đó nó sẽ được mài chỉnh bằng mũi khoan trên labo để tùy biến hình dạng. Thông thường, abutment sẽ được thử lại để đảm bảo đạt hình dạng chính xác, đặc biệt trong trường hợp không thấy đường hoàn tất (là đường hoàn tất của mão răng sau này).
Abutment sửa soạn bán phần được sử dụng theo hai cách sau:
- Abutment và mão răng sau cùng được thực hiện cùng một lúc. Điều này có thể chấp nhận được nếu hướng của implant ít thay đổi và mô mềm xung quanh lành mạnh, ổn định. Kỹ thuật này đảm bảo đường hoàn tất giữa mão răng và abutment khít sát tốt, không cần phải lấy dấu lần hai. Tuy nhiên nó lại có nguy cơ về kết quả lâu dài nếu đường hoàn tất chỉ đặt ngay dưới nướu, bởi vì nếu có sự tụt nướu sau khi gắn mão, sẽ làm lộ phần kim loại của mão răng. Do đó người ta khuyến cáo nên đặt đường hoàn tất sâu hơn một chút để tránh nguy cơ nói trên. Thường sẽ ổn hơn nếu ta gắn tạm mão răng để có thể điều chỉnh mô mềm (nếu cần) trước khi gắn chính thức.
- Abutment được sửa soạn cùng lúc với mão tạm trong thì phục hình đầu tiên. Sau đó ta sẽ lấy dấu lần thứ 2 khi gắn abutment vào vị trí và lúc này mão răng sau cùng mới được thực hiện. Phương pháp này đòi hỏi nhiều giai đoạn hơn, nhưng kết quả đạt được sẽ dễ dự đoán hơn. Tuy nhiên có thể sẽ khó để lấy dấu abutment khi đã gắn vào vị trí, đường hoàn tất sâu dưới nướu cũng là một vấn đề vì rất khó đặt chỉ co nướu. Ta có thể dùng coping nhựa với kỹ thuật pick-up. Hoặc một cách khác là sau khi abutment đã đạt yêu cầu, ta có thể tháo nó ra ngoài và mão răng sẽ được làm trực tiếp trên abutment. Điều chỉnh đường hoàn tất trên miệng có thể gây chảy máu nướu, do đó tốt nhất là ta nên tháo abutment ra, đặt lại trên mẫu hàm để điều chỉnh.
Phương pháp này đặc biệt có ích khi đường viền và hình dạng mô nướu cần được điều chỉnh rõ rệt. Abutment được thực hiện cùng với mão tạm đáp ứng phần nào về hình thể sau cùng. Sau khi gắn tạm, mô mềm sẽ biến đối và tạo dạng theo hình thể mới. Ta có thể điều chỉnh lại hình dạng mão tạm ở những lần hẹn tiếp theo bằng cách đắp thêm cho đến khi đạt được hình thể và viền nướu theo ý muốn. Dấu sau cùng của abutment và mô mềm xung quanh sẽ dùng để thực hiện mão răng sau cùng.
Ưu điểm
- Cho phép thay đổi góc độ và hướng lắp của mão.
- Có thể tạo dạng đường viền nướu
- Yêu cầu tối thiểu về labo
Nhược điểm
- Sự tùy chỉnh có giới hạn bởi kích thước ban đầu của abutment
- Thiết diện cắt ngang hình tròn do đó không thể tái tạo lại được hoàn toàn hình dạng giải phẫu của răng.
Nguồn: Implant trong thực hành Nha khoa – Richard D. Palmer/Nhóm dịch Saigon Young Dentists Việt Nam
Leave a Reply