Ung thư vú di căn não thường xuất hiện vào giai đoạn 4 của bệnh. Mời tham khảo bài viết để có thêm thông tin, triệu chứng, chẩn đoán về bệnh.
1. Tổng quan
Não là một trong những vị trí phổ biến hơn mà ung thư vú lây lan, cùng với xương, phổi và gan. Khi ung thư vú lan đến não, nó được coi là giai đoạn 4 hoặc ung thư vú di căn. Ở giai đoạn này, tình trạng bệnh có thể được cải thiện nếu áp dụng phương pháp điều trị phù hợp. Khi đó các triệu chứng được giảm nhẹ, giúp nâng cao chất lượng cuộc sống và đôi khi kéo dài thời gian sống sót.
Nếu lấy một mẫu của khối hoặc nhiều khối trong não, chúng sẽ chứa các tế bào ung thư vú chứ không phải tế bào não. Vì vậy, di căn não không được gọi là “ung thư não” mà là “ung thư vú di căn lên não” hoặc “ung thư vú di căn não”. Do đó, các phương pháp điều trị là những phương pháp được sử dụng cho bệnh ung thư vú tiến triển, không phải là phương pháp điều trị ung thư não.
Với quan niệm cũ, di căn não không bao giờ được coi là có thể chữa khỏi. Mục tiêu điều trị là “giảm nhẹ”, nghĩa là kiểm soát các triệu chứng nhưng không cố gắng chữa khỏi khối u. Trong những năm gần đây, khái niệm “oligometastase” đã được đề cập. Đó là, khi một người chỉ có một hoặc một vài di căn và không có di căn đáng kể đến các vùng khác của cơ thể, thì có thể thử một phương pháp chữa bệnh để loại bỏ di căn. Nói cách khác, trong khi việc điều trị thường chỉ mang tính giảm nhẹ, đặc biệt đối với những người bị di căn nhiều hoặc lan rộng, thì đối với một số người, liệu pháp có khả năng chữa khỏi bệnh có thể là một lựa chọn.
2. Triệu chứng ung thư vú di căn não
Có một số triệu chứng khác nhau có thể báo trước sự hiện diện của bệnh. Đôi khi không có triệu chứng và những di căn này chỉ được tìm thấy khi thực hiện xét nghiệm hình ảnh, chẳng hạn như chụp cộng hưởng từ não.
Khi có các triệu chứng, chúng có thể bao gồm:
- Nhức đầu: Nhức đầu do di căn não có thể tương tự như đau đầu do căng thẳng hoặc đau nửa đầu,..Triệu chứng đau đầu thường xuất hiện ở 35% số người khi phát hiện di căn não. Nhức đầu liên quan đến di căn não có xu hướng tồi tệ hơn khi nằm xuống, tồi tệ hơn vào buổi sáng hoặc sau khi ngủ trưa và tồi tệ hơn khi ho, hắt hơi hoặc cúi xuống để đi tiêu. Điều này có thể khó phân biệt giữa đau đầu “bình thường” và đau đầu do di căn mà không cần nghiên cứu hình ảnh.
- Nôn mửa: Nôn mửa (có hoặc không có buồn nôn) là triệu chứng phổ biến thứ hai của di căn não trong một nghiên cứu. Nó có thể xảy ra đột ngột mà không có bất kỳ cảm giác buồn nôn nào trước đó và thường tồi tệ nhất sau khi nằm xuống và vào buổi sáng. Nôn do di căn não có xu hướng trở nên tồi tệ hơn và thường xuyên hơn theo thời gian.
- Yếu một bên cơ thể, tê hoặc ngứa ran ở tứ chi: Liệt nửa người, yếu hoặc liệt một bên cơ thể, là triệu chứng thần kinh phổ biến thứ ba của bệnh trong một nghiên cứu.
- Thay đổi thị lực : Các vấn đề như nhìn đôi, nhìn mờ, nhìn thấy ánh sáng nhấp nháy hoặc mất thị lực có thể xảy ra.
- Động kinh: Động kinh có thể là co cứng-co giật (grand mal), trong đó toàn bộ cơ thể run rẩy và một người bất tỉnh; co giật một phần, trong đó một chi, chẳng hạn như cánh tay, run rẩy; hoặc các loại động kinh khác, chẳng hạn như những loại mà một người dường như nhìn chằm chằm vào khoảng không.
- Thay đổi tâm lý: Thay đổi tính cách, thay đổi hành vi, thay đổi tâm trạng hoặc suy giảm khả năng phán đoán có thể xảy ra.
- Mất thăng bằng khi di chuyển
3. Nguyên nhân di căn não
Không chắc chắn tại sao một số người phát triển di căn não và những người khác thì không. Tuy nhiên, có thể gồm một số yếu tố rủi ro sau đây:
- Có nhiều khả năng xảy ra ở phụ nữ trẻ bị ung thư vú và tỷ lệ mắc bệnh cao hơn ở những người được chẩn đoán trước tuổi 35.
- Các khối u có nhiều khả năng bao gồm những khối u có cấp độ khối u cao hơn , những khối u có HER2 dương tính và thụ thể estrogen âm tính, và những thụ thể âm tính gấp ba lần.
- Ung thư vú có nhiều khả năng di căn lên não đối với những người có khối u vú lớn hơn (đường kính lớn hơn 2 cm) hoặc có hạch bạch huyết dương tính tại thời điểm chẩn đoán ban đầu. Khoảng thời gian ngắn hơn giữa ung thư giai đoạn đầu ban đầu và tái phát cũng có liên quan đến nguy cơ di căn não cao hơn.
4. Chẩn đoán
MRI là kỹ thuật hình ảnh được sử dụng phổ biến nhất để phát hiện hoặc chụp CT đầu có thể được sử dụng cho những người không thể thực hiện MRI (ví dụ: những người có máy tạo nhịp tim), nhưng chụp CT ít hiệu quả hơn trong việc xác định sự hiện diện của di căn não. Chẩn đoán thường được thực hiện dựa trên kết quả hình ảnh và tiền sử ung thư vú, trong một số trường hợp bác sĩ có thể đề nghị làm sinh thiết để chọn các phương pháp điều trị thích hợp. Vì trạng thái thụ thể có thể thay đổi (cho dù khối u là thụ thể estrogen, thụ thể progesterone hay HER2 dương tính) khi di căn.
Các vị trí di căn não phổ biến nhất là tiểu não (phần kiểm soát sự cân bằng) và thùy trán . Ít nhất một nửa số người được chẩn đoán di căn não do ung thư vú sẽ có nhiều di căn.
5. Các lựa chọn điều trị
Điều trị có thể được chia thành các phương pháp điều trị toàn thân (phương pháp điều trị ung thư ở bất cứ đâu trong cơ thể) và phương pháp điều trị tại chỗ (phương pháp điều trị cụ thể di căn não). Ngoài các phương pháp điều trị được sử dụng để điều trị bệnh ung thư, steroid thường được sử dụng để giảm phù não và đôi khi có thể làm giảm đáng kể tác dụng phụ.
Lưu ý: Vấn đề quan trọng trong điều trị di căn não là nhiều loại thuốc không thể xuyên qua hàng rào máu não. (Hàng rào máu não là một mạng lưới mao mạch chặt chẽ được thiết kế để loại bỏ chất độc ra khỏi não. Thật không may, nó cũng rất hiệu quả trong việc loại bỏ các loại thuốc hóa trị và một số loại thuốc khác ra khỏi não. Các nghiên cứu hiện đang xem xét các phương pháp để tăng tính thấm của hàng rào máu não).
Ngoài steroid và các phương pháp điều trị toàn thân hoặc tại chỗ đối với di căn não, điều quan trọng là phải giải quyết các triệu chứng khác liên quan đến ung thư di căn, chẳng hạn như mệt mỏi, chán ăn, trầm cảm, v.v.
6. Kết luận
Ngoài steroid và các phương pháp điều trị toàn thân hoặc tại chỗ đối với di căn não, điều quan trọng là phải giải quyết các triệu chứng khác liên quan đến ung thư di căn, chẳng hạn như mệt mỏi, chán ăn, trầm cảm, v.v.
Có thể tư vấn bệnh nhân tham khảo qua phương pháp chăm sóc giảm nhẹ. Chăm sóc giảm nhẹ không giống như chăm sóc cuối đời, nhưng là một phương pháp điều trị được sử dụng để điều trị các triệu chứng về thể chất, cảm xúc và tinh thần đi kèm với chẩn đoán ung thư. Điều này có thể hữu ích ngay cả với các khối u có khả năng chữa khỏi cao.
Nguồn verywellhealth
Leave a Reply