Implant vùng răng cửa trên – Góc và vị trí của trụ Implant.

Bài viết này cung cấp kiến thức cho Nha sĩ vềvấn đề góc của Implant theo chiều ngoài trong, đồng thời minh hoạ rõ ràng vị trí và hướng của Implant theo từng trường hợp lâm sàng cụ thể. Điều quan trọng là xem xét vị trí ngoài trong có đảm bảo yêu cầu về góc của implant hay không và điều chỉnh vị trí này nếu cần thiết. Cùng tìm hiểu.

1. Góc của Implant theo chiều ngoài-trong

Hình dưới đây cho thấy khả năng thay đồi góc của implant. Implant có thể được đặt trùng với trục răng, cho thấy Implant/mão răng tạo góc trung bình 110° với mặt phẳng Frankfurt. Trục của implant và abutment xuyên qua cạnh cắn của mão răng. Đây là vị trí thông thường và bắt buộc đối với mão được gắn bằng xê măng. Trong nhiều trường hợp profile của xương bắt buộc implant phải đặt nghiêng nhiều ra phía ngoài.

goc-cua-implant
Implant được vẽ có nhiều góc độ khác nhau trong mặt phẳng Frankfurt, góc nghiêng trung bình của chân răng tự nhiên là 110° trong tương quan khớp cắn hạng I răng cửa. Mão phục hình không thay đổi góc độ, còn trục của khối implant-abutment nghiêng dần ra ngoài mỗi 10° qua từng hình.
goc-cua-implant-2
Implant được vẽ có nhiều góc độ khác nhau trong mặt phẳng Frankfurt, góc nghiêng trung bình của chân răng tự nhiên là 110° trong tương quan khớp cắn hạng I răng cửa. Mão phục hình không thay đổi góc độ, còn trục của khối implant-abutment nghiêng dần vào trong mỗi 10° qua từng hình.
(A) Thay thế cả hai răng cửa bên hàm trên ở một bệnh nhân trẻ tuổi. Hình ảnh này cho thấy coping lấy dấu trên implant trong giai đoạn phục hình. Cả hai implant đều nghiêng ngoài hơn so với răng tự nhiên kế bên. (B) Kết quả sau khi hoàn tất cho thấy đạt được mặt thoát thẩm mỹ tốt.
Loạt hình ảnh về quá trình thay thế một răng cửa bên hàm trên bằng một implant có trục nghiêng ra ngoài. (A) Khoảng trống mất răng cửa bên rộng. (B) Mảng hướng dẫn phẫu thuật được mang trong miệng, có một chốt định hướng được đặt ở vị trí đã sửa soạn ban đầu. (C) Đặt implant vào vị trí, dụng cụ đặt vẫn đang kết nối với implant. Implant được đặt sâu hơn (so với mào xương) vài millimet. (D) Nhìn cây vặn implant từ mặt bên thấy góc độ nghiêng ngoài rất đáng lưu ý của implant, trục implant tương ứng với 1 đường thẳng xuyên qua điểm giữa mặt ngoài mão phục hình. Hiển nhiên trên răng tự nhiên cũng có một góc rõ rệt giữa chân và thân răng. (E) Kết quả sau khi hoàn tất vẫn cho thấy một mão phục hình gắn bằng cement có thẩm mỹ tốt.
Loạt hình ảnh cho thấy vị trí lệch trong (phía khẩu cái) đáng kể của một implant thay thế cho một răng cửa giữa hàm trên. (A) Nhìn từ phía cạnh cắn, ta thấy mặt ngoài sống hàm có tiêu xương lõm vào. (B) Lật vạt bộc lộ rõ ống răng cửa lớn, có thể ảnh hưởng đến vị trí cắm implant sau này. (C) Sửa soạn vị trí đặt implant với lượng xương sẵn có mà không gây hại đến các cấu trúc lân cận. (D) Một implant Astra Tech đã được đặt. (E) Kết quả sau khi hoàn thành cho thấy thẩm mỹ bị ảnh hưởng do vị trí lệch trong của implant. Mão phục hình đè lên nướu ở mặt ngoài (ridge lapped). Để khắc phục vấn đề này thì vùng đặt implant cần phải ghép xương để tăng thể tích vừa phải. Bệnh nhân cần được tư vấn trước để có thể chấp nhận hạn chế về mặt thẩm mỹ này, đặc biệt nếu vùng cổ răng không lộ ra khi thực hiện chức năng bình thường. (F) Nhìn từ mặt trong sau khi hoàn tất, ta thấy lỗ vặn vít giữ abutment. Mão phục hình được gắn bằng cement với một abutment tiêu chuẩn, nhưng ta có thể thảo ra hoặc siết chặt cả khối mão răng/abutment bằng con vít lưu giữ abutment thông qua lỗ vặn vít này. (G) Hình ảnh X-Quang sau khi hoàn tất cho thấy đường viền/ mặt thoát tốt trên mặt phẳng gần-xa, giấu bớt mặt nghiêng đè lên nước trên mặt phẳng ngoài trong.
(A) Đặt một implant thay thế cho một răng cửa giữa trên bên phải. Implant chìm thấp hơn mào xương ở răng kế khoảng 2mm và một vít phủ gắn trên implant. Con vit này gần như ngang với xương kế cận, và điều này giúp giảm khả năng xương tăng trưởng phủ lên vít. (B) Phục hình tạm thời được đặt vào, cho thấy sự chênh lệch giữa đường viền cổ răng và đầu implant. Implant nằm chìm phía dưới sẽ cho phép phục hình đạt được một mặt thoát tốt, đặc biệt là khi vị trí đặt implant hơi về phía xa để tránh đụng chạm tới nhủ của ống răng cửa.

Trong hình trên, implant tạo góc hơn 10° về phía mặt ngoài và mão vẫn duy trì vị trí/góc trước đó. Bây giờ trục xuyên qua mặt ngoài tới cạnh của răng cửa và tạo ra một góc nhỏ không đáng kể giữa mão và implant, điều này giống như góc giữa chân và thân răng thường thấy ở các răng cửa tự nhiên. Góc như thế này đem lại thẩm mỹ, tạo ra hình dạng tự nhiên và lồi lên ở viền cổ răng mặt ngoài tương tự răng bên cạnh, đó là mặt thoát (emergence profile) tối ưu. Tăng góc nghiêng ngoài hơn 10° vẫn đem lại giải pháp phục hồi thẩm mỹ trừ khi tăng góc tới mức không thể tạo ra một phục hình thẩm mỹ.

Ngược lại, tiêu xương về phía khẩu cái có thể làm góc implant nghiêng về phía khẩu cái hơn. Hình 9.8 cho thấy góc của implant tăng dần 10° về phía khẩu cái. Tăng 10° về phía khẩu cái ít gây ảnh hưởng hơn mặc dù sẽ có khuynh hướng kém thuận lợi cho đường viền cổ răng/ mặt thoát. Khi tăng góc nghiêng về phía khẩu cái, cần phải thay thế việc mất đường cổ răng mặt ngoài bằng phục hình phủ nước (ridge lapping). Điều này dẫn tới phục hình sẽ không có độ lồi (emerge) từ mô mềm nhưng một ridge lap sẽ “ngồi” lên mô tương tự như nhịp cầu trong phục hình cố định truyền thống. Thuận lợi duy nhất của implant góc hướng về khẩu cái là khả năng bắt vít xuyên qua cingulum của phục hình cho phép giữ phục hình bằng vít hơn là cement. Phục hình một răng lưu giữa bằng vít ít quan trọng hơn trước đây vì sự lỏng vít vặn abutment có tỷ lệ rất thấp (thiết kế tốt hơn và độ chặt phù hợp do sử dụng torque để kiểm soát).
Hình trên cho thấy góc implant nằm giữa khoảng 20° chìa ra và 10° cụp vào đối với trục bình thường là chấp nhận được. Góc implant nằm ngoài giới hạn này sẽ ảnh hưởng thẩm mỹ và thử thách kỹ năng của Bác sĩ phục hình đến giới hạn nơi implant không thể phục hình được hoặc thẩm mỹ không chấp nhận được. Những điểm lưu ý sau sẽ giúp tránh tình trạng này:

1. Đánh giá và lên kế hoạch trước phẫu thuật tốt

2. Những vùng tiên lượng xảy ra các khó khăn này nên được ghép xương trước

3. Sử dụng máng phẫu thuật và chốt định hướng tại mỗi giai đoạn sửa soạn để kiểm tra góc và vị trí của đầu implant

Những guideline trên chỉ có tính tương đối và mỗi trường hợp nên được đánh giá cụ thể, đặc biệt quan tâm đến bệnh nhân có góc thân răng/chân răng dễ nhận thấy và/hoặc khớp cắn hạng 2 hoặc hạng 3 trong tương quan răng cửa. Vấn đề khó khăn về góc gặp phải khi phẫu thuật có thể giảm đi bằng cách tạo lối vào ban đầu hướng về phía khẩu cái. Điều này cho phép thay đổi góc implant và giữ cho implant nằm trong đường viền xương. Do đó điều quan trọng là xem xét vị trí ngoài trong có đảm bảo yêu cầu về góc của implant hay không và điều chỉnh vị trí này nếu cần thiết.

2. Vị trí của đầu trụ theo chiều đứng

Vị trí đầu implant quan trọng trong việc cung cấp khoảng trống cho abutment và đường hoàn tất phục hình, được đặt ở vị trí thẩm mỹ tương ứng với độ dày của mô mềm. Hình trên cho thấy hình ảnh phía trước với vị trí lý tưởng của implant ở giữa của trục răng với đầu của implant nằm cách đường viền nướu-cổ răng 3mm về phía chóp. Nên có một ít thay đổi về góc của implant trong mặt phẳng này và hầu hết sự khác biệt liên quan tới vị trí của đầu implant theo chiều đứng. Khoảng cách 3mm giữa đầu implant và đường nối men- xê măng của răng kế bên cho phép một sự chuyển tiếp mượt mà của profile phục hình từ một implant có đường kính trung bình (4mm) tới kích cỡ của răng tự nhiên như răng cửa giữa, răng cửa bên và răng nanh. Một đầu implant quá gần thân răng đòi hỏi sự bẻ góc lớn một cách đột ngột và có khả năng làm lộ abutment hoặc đầu implant gây mất thẩm mỹ. Đầu implant đặt sâu về phía chóp cho phép sự chuyển tiếp mượt mà của profile, nhưng nếu quá mức sẽ làm phục hình rất dài, dễ xảy ra biến chứng về mặt cơ học. Đầu implant đặt quá sâu sẽ gây khó khăn cho BS phục hình khi xử lý và thất bại trong việc duy trì chiều cao mô mềm dẫn tới mất thẩm mỹ.

Nguồn: Implant trong thực hành Nha khoa – Richard D.Palmer/Nhóm dịch Saigon Young Dentists Việt Nam


Posted

in

,

by

Tags:

Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *