Kế hoạch điều trị Implant – Khám, Xquang và lấy mẫu.

Đối mặt với một bệnh nhân lần đầu đến phòng khám để điều trị Implant, Nha sĩ cần có một kế hoạch hoàn chỉnh, bao gồm từ bước khám lâm sàng ban đầu, lấy mẫu hàm, Xquang, lập kế hoạch điều trị Implant một cách tuần tự. Cùng tìm hiểu bài viết sau để hiểu sâu hơn các vấn đề khi tiến hành các bước này.

1. Khám lâm sàng ban đầu đối với bệnh nhân lập kế hoạch điều trị Implant

Thăm khám lâm sàng trong miệng và ngoài miệng nên được thực hiện một cách kỹ lưỡng trên tất cả bệnh nhân để chẩn đoán chắc chắn các bệnh lý răng miệng đang hiện diện. Chẩn đoán và xử lý các vấn đề sâu răng, nha chu, nội nha không phải là mục tiêu của sách này, người đọc nên tìm đọc các tài liệu khác có liên quan. Tuy nhiên, cần phải nhớ rằng viêm nha chu liên quan đến viêm quanh implant và sự thất bại implant. Implant đặt gần sang thương nội nha cũng có thể thất bại. Những nhân tố cụ thể liên quan đến việc điều trị implant được thảo luận ở đây và trong những phần có liên quan như phục hình một răng, cầu răng và hàm phủ. Ta cần đánh giá khoảng mất răng hoặc sống hàm.

Chiều cao, chiều rộng và đường viền của sống hàm mất răng có thể đánh giá bằng mắt và sờ nắn cẩn thận.

dieu-tri-implant
(A) Một BN mất răng cửa giữa sau khi hư phục hình cố định. (B) Khám trong miệng thấy chiều cao sống hàm răng 11 tốt nhưng răng 21 thì thiếu chiều cao. (C) BN mang hàm chẩn đoán khi môi ở tư thế nghỉ. (D) Hàm chẩn đoán trong miệng. Không có sáp nướu mặt ngoài và sự khác biệt chiều cao sống hàm giữa 11,21 là không đáng kể. BN này được điều trị mà không nới rộng sống hàm. (E) BN này đã điều trị với 2 implant đơn sau 8 năm. Chiều cao lâm sàng hai răng cửa đối xứng nhau nhưng dài hơn răng thật kế bên. (F) Phim Xquang sau điều trị 8 năm cho thấy mức xương rất lý tưởng nằm ngang vòng ren đầu tiên của implant Branemark Abutment và mão là toàn sứ.

Sự hiện diện của những vùng lõm (đặc biệt là ở mặt ngoài) thường dễ dàng nhận thấy. Tuy nhiên, thường khó khăn để đánh giá chính xác chiều rộng xương bên dưới, đặc biệt ở những vùng có mô bao phủ xơ và dày. Điều này thường gặp ở vùng khẩu cái nơi mô có thể rất dày và làm chúng ta cảm nhận sai về profile của xương. Độ dày mô mềm có thể đo bằng cách gây tê rồi dùng cây đo túi đâm vào mô để đo hoặc tiến hành ridge-mapping. Tuy nhiên, hình ảnh 3D để kiểm tra mặt cắt của xương thường được dùng hơn. Mặt cắt nghiêng/góc độ của sống hàm và mối quan hệ của nó với hàm đối diện rất quan trọng. Khoảng cách giữa sống hàm mất răng và hàm đối diện nên được đo lường để chắc chắn đủ khoảng cho phục hình.

dieu-tri-implant-2
(A) Một BN mất răng cửa trên trong khi răng cửa dưới gần chạm sống hàm trên ở khớp cắn trung tâm. Khoảng trống cho các thành phần của implant phụ thuộc vào chiều sâu của đầu implant bên dưới xương. (B) BN này cùng với hàm giả đang mang. Các răng giả nằm phủ lên nướu và không có nướu giả bên ngoài. Các răng giả phủ sống hàm rất nhiều. Implant sẽ phải đặt ở vị trí chìm bên dưới để cho phép mão răng thoát ra ở ngang mức với các răng giả này.

Điều này khác nhau giữa hệ thống implant đang sử dụng và kiểu phục hình gắn xi măng hay gắn bằng vít. Độ lưu giữ của phục hình gắn xi măng phục thuộc vào chiều cao abutment và sự song song (dễ dàng đạt được bằng kỹ thuật CAD-CAM), ngược lại phục hình bắt vít phải có đủ chiều cao để đủ chỗ cho abutment/ vít abutment và phục hình. Những sống hàm chìa có khuynh hướng dẫn tới việc đặt implant chìa, điều này có thể ảnh hưởng sự tải lực và thẩm mỹ, đặc biệt phục hình bắt vít đòi hỏi abutment bẻ góc. Tăng khoảng cách theo chiều dọc giữa hai hàm sẽ làm phục hình trở nên dài và lực đòn bẩy tác động lên phục hình nhiều hơn. Chúng ta cần nhận thấy sự khác biệt về độ rộng hẹp theo chiều ngang giữa 2 hàm và có kế hoạch xử trí thích hợp, ví dụ ở khớp cắn hạng 3 mà xương hàm trên bị tiêu nhiều. Điều này có thể được giải quyết bằng cách chỉ định điều trị bằng một phục hình hàm phủ hoặc ghép xương/phẫu thuật chỉnh nha.

Khám lâm sàng cũng cho phép đánh giá độ dày của mô mềm, điều này quan trọng để đạt được độ thẩm mỹ cao. Mô sừng hóa bám vào sống hàm mất răng nhìn chung sẽ tạo vùng mô mềm quanh điều trị implant tốt hơn niêm mạc di động không sừng hóa. Chiều rộng gần xa vùng mất răng được đo đạc để biết có thể đặt vào bao nhiêu implant. Tốt nhất là dung compa đo chiều dày và thước đo milimet. Khoảng cách được đo từ đỉnh của thân răng, điểm lồi tối đa của thân răng đến ngay mức sống hàm mất răng. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi phải tham khảo

1. Phim X-quang để đánh giá tương quan với thể tích xương sẵn có

2. Mẫu chẩn đoán cho vị trí răng dự kiến

3. Sống hàm mất răng được giới hạn bởi răng; khoảng trống có thể bị ảnh hưởng bởi sự nghiêng của các chân răng kế cận. Điều này có thể được thăm khám bằng tay và đánh giá bằng X-quang.

2. Phim Xquang ban đầu

Phim X-quang có thể cho chúng ta thấy

1. Giải phẫu toàn thể hàm trên, hàm dưới và chiều cao xương tiềm năng;

2. Các bất thường về giải phẫu hoặc các thương tổn bệnh lý;

3. Những vùng có thể đặt implant mà không cần ghép xương và những vùng đòi hỏi ghép xương,

4. Tình trạng nha chu và phụ hình của những răng còn lại;

5. Chiều dài, hình dạng, góc và độ gần của các chân răng kế cận

Trong nhiều trường hợp phim panorex (DMT- dental panoramic tomograph) được lựa chọn.

Phim toàn cảnh cho thấy các cấu trúc giải phẫu chính của hàm theo tương quan với răng đang hiện diện. BN này có chiều cao xương tốt ở vùng răng cối nhỏ trên và dưới. Xoang hàm trên không xâm lấn vùng răng cối nhỏ. Vị trí thần kinh cằm và thần kinh răng dưới nằm về phía chóp rất tốt.

Nó cung cấp một hình ảnh trong chuỗi tiêu điểm định trước của cả hàm trên và hàm dưới, cho thấy chiều cao xương gần như chính xác, vị trí bó thần kinh răng dưới, kích thước và vị trí của xoang hàm trên, và bất kỳ tình trạng bệnh lý nào hiện diện. Do đó nó đem lại cái nhìn lý tưởng cho việc kế hoạch điều trị ban đầu và cung cấp thông tin cho bệnh nhân vì nó trình bày hình ảnh theo cách mà phần lớn bệnh nhân đều có thể hiểu được. Một vài vùng có thể được chụp không tốt, nhưng có thể giảm thiểu điều này bằng cách đảm bảo cho bệnh nhân ngồi đúng tư thế và chọn chương trình thích hợp. Nó cung cấp nhiều thông tin về cấu trúc giải phẫu liên quan hơn phim quanh chóp nhưng ít chính xác về chi tiết của răng hơn. Cần nhớ rằng tất cả phim panorex đều phóng đại hình ảnh (xấp xỉ 1.3 lần). Sự biến dạng cũng xảy ra theo chiều trước sau làm giảm sự hữu dụng của nó khi lập kế hoạch cho số lượng implant/ khoảng cách implant. Phim ban đầu giúp lựa chọn loại x-quang thích hợp nhất cho việc lập kế hoạch sau cùng (xem phần Mão đơn lẻ, Cầu răng cố định, Hàm phủ) kết hợp với khám lâm sàng để biết có cần chụp CT hay không.

3. Mẫu nghiên cứu và mẫu chẩn đoán

Mẫu hàm nghiên cứu đã lên giá khớp cho phép đánh giá nhiều yếu tố được lưu ý ở phần trước. Răng dự kiến thay thế có thể định vị trên mẫu hàm bằng răng giả tháo lắp hoặc răng điêu khắc bằng sáp.

(B) Mẫu hàm nghiên cứu được lên giá khớp với mẫu sáp chẩn đoán. (C) Một hàm tháo lắp lắp liền dựa trên mẫu sáp chẩn đoán được làm cho BN mang.

Ưu điểm của răng giả tháo lắp là có thể chuyển thành phục hình tạm và được đánh giá trong miệng bởi bác sỹ và bệnh nhân. Vì vậy, mẫu chẩn đoán quyết định số lượng và vị trí răng được thay thế và mối quan hệ cắn khớp với hàm đối diện. Một khi mẫu chẩn đoán được bác sỹ và bệnh nhân đồng ý, nó sẽ được dung để chuyển thành máng hướng dẫn chụp phim và phẫu thuật.

(D) Răng tháo lắp được phủ mặt ngoài với chất cản quang (TempBond). (F) Một mảng hướng dẫn phẫu thuật được làm dựa trên hàm chẩn đoán.

Máng hướng dẫn được đặt trên mẫu đầu tiên và sau khi tham khảo phim, bác sỹ có thể quyết định số lượng, loại và vị trí tối ưu của các implant.

Nguồn: Implant trong thực hành Nha khoa – Richard D.Palmer/Nhóm dịch Saigon Young Dentists Việt Nam


Posted

in

,

by

Tags:

Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *