Thay khớp vai đảo ngược: Đại cương, chỉ định và chống chỉ định

Thay khớp vai đảo ngược hay thay khớp vai toàn phần đảo ngược xuất hiện từ năm 1970 và bắt đầu trở nên phổ biến vào những năm 1990. Khác với loại khớp vai toàn phần truyền thống, khớp vai đảo ngược thay đổi vai trò của hai thành phần khớp nhân tạo: phần ổ chảo có dạng chỏm cầu trong khi phần xương cánh tay có dạng mặt đĩa lõm ôm lấy phần chỏm cầu của ổ chảo. Thông qua bài viết, chúng tôi sẽ trình bày về phần đại cương, chỉ định và chống chỉ định thay khớp vai đảo ngược.

Nhóm tác giả: PGS. TS Đinh Ngọc Sơn, BS CKII Vũ Trường Thịnh

Ngày phát hành: 30/03/2022

1. Đại cương về thay khớp vai đảo ngược

Loại khớp vai này sử đụng cho các trường hợp thoái hoá khớp vai kèm theo ton thương chóp xoay không thế phục hồi, hay ờ các trường hợp gày phức tạp đầu trên xương cánh tay hoặc thay lại khớp vai khi thành phần chóp xoay bị mất chức năng hoặc không thể khôi phục. Khớp vai đảo ngược bước đầu cho kết quả rất tốt về giâm đau, độ vững khớp vai cũng như chức năng khớp vai khi so với khớp vai kiểu giải phẫu.

Hình ảnh X-quang (A) và hình vẽ mô tả (B) khớp vai đảo ngược
Hình ảnh X-quang (A) và hình vẽ mô tả (B) khớp vai đảo ngược

Nguyên lý cơ sinh học của khớp vai đảo ngược

Khớp vai nhân tạo kinh điển có thiết kế tương tự như cấu trúc khớp vai bình thường. Phần ồ chảo xương cánh tay được thiết kế để thay thể 0 chảo thông thường với cẩu trúc dạng “đĩa” mòng và nông, phần chỏm nhân tạo được thiết kế thay thế phần chỏm cầu của xương cánh tay. Cơ chề này tương tự như chuyển động của viên bi trên cái đĩa. cấu trúc bao khớp và hệ thống gân chóp xoay giúp giữ cho viên bi chuyến động đêu xung quanh cách dễ dàng trên cái đĩa, không bị trật ra ngoài và luôn ở vị trí trung tâm. Khi chóp xoay bị tổn (hương, viên bi sẽ không chuyến động đều nữa mà có xu hướng trượt trên đĩa do lực kéo của cơ delta do đó, khả năng nâng vai của bệnh nhân bị hạn chế và sự mài mòn tăng nhanh làm bệnh nhân sớm xuất hiện đau trở lại.

Đổ giải quyết điều này, việc thay đổi cơ chế vận động cơ học của khớp vai nhân tạo cần phải được đặt ra và khớp vai nhân tạo sẽ hoạt động theo cơ chế khác thích nghi với tình trạng không có chóp xoay. Giải pháp là đảo ngược vai trò của 2 thành phẩn khớp nhân tạo vì vậy khớp vai nhân tạo kiểu này gọi là khớp vai đảo ngược.

Phần ố chảo sẽ có cấu trúc dạng chỏm cầu còn phần chỏm xương cánh tay sẽ được thay thế bởi cấu trúc dạng “đĩa” nhưng sâu và ôm khít lấy chỏm cầu. Thiết ke này giúp cho khớp nhân tạo vững hơn và có thể vận động nâng tay lên cao không cần có gân cơ chóp xoay. Việc làm vững khớp nhân tạo là do cấu trúc “đìa” được làm sâu và ôm khít lấy cấu trúc chỏm cầu do đó làm cho chởm cầu không trượt mà xoay khi thực hiện động tác nâng tay.

Trong cung vận động nâng cánh tay, cơ delta tham gia từ 0-60 độ, từ 60 “ 120 độ do các cơ chóp xoay đảm nhiệm, phần còn lại từ 120 – 180 độ do khớp bả vai lồng ngực đảm nhiệm. Nhờ phổi họp của 3 giai đoạn của cung chuyến động đó mà chỏm xương cánh tay hoặc chỏm khớp nhân tạo kinh điển sẽ xoay tròn trên 0 chào khớp vai (hoặc ổ chảo nhân tạo). Khi tổn thương gân cơ chóp xoay, ờ giai đoạn cung vận động do gân cơ chóp xoay đảm nhiệm, lực kéo của cơ delta sẽ kéo làm cho chỏm xương cánh tay hoặc chỏm nhân tạo kinh đicn trượt lên theo chiều dọc trên “đĩa” ố chảo, do đó cánh tay không thể nâng lên tiếp được và o chảo bị ma sát gây mài mòn.

Với thiết kế khớp vai đảo ngược, tấm xoay của khớp vai dịch vào trong làm cho cánh tay đòn của cơ delta tăng lên, làm tăng momen lực của cơ delta. Trong khớp vai đảo ngược, chiều dài cơ delta lúc nghỉ cũng tăng lên, làm tăng biên độ vận động cơ delta, bù lại sự thiếu hụt của cơ trên gai. Ngoài ra, khi tâm xoay dịch chuyển vào trong, phần cơ delta tham gia vào động tác giạng vai sẽ: tăng lên

2. Chỉ định và chống chỉ định 

2.1 Chỉ định

2.1.1 Tổn thương chóp xoay

  • Chỉ định phô biên của thay khớp vai đảo ngược là tình trạng thoái hoá khớp vai kèm tổn thương gân cơ chóp xoay. Ngoài ra, thay khớp vai đảo ngược còn chỉ định cho các trường hợp tổn thương nặng chóp xoay dẫn đến tình trạng “giả liệt” mặc dù không có biểu hiện của thoái hoá khớp và những trường họp gày phức tạp chỏm xương cánh tay.
  • Đối với các tốn thương chóp xoay nặng, có the đẫn đến tình trạng “giả liệt”, nghĩa là mặc dù ko có tổn thương thần kinh (liệt thần kinh) nhưng do tổn thương gân cơ chóp xoay nặng nên bệnh nhân vẫn không thể thực hiện được động tác nâng vai. Với những trường hợp này, mặc dù khớp không có tốn thương thoái hoá nhưng vẫn có thể chỉ định thay khớp vai đảo ngược.nữa, ở bệnh nhân lớn tuổi chóp xoay thường bị tổn thương thoái hoá. Điều này dẫn đen việc phục hồi chức năng

2.1.2 Gãy đầu trên xương cánh tay 

Đối với trường hợp gãy phức tạp đầu trên xương cánh tay ở bệnh nhân cao tuổi, kết xương thường khó khăn và có nhiều nguy cơ thất bại thay khớp vai bán phần thường được chỉ định. Tuy nhiên thay khớp vai bán phần có thể sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc khôi phục mấu động lớn xương cánh tay (diện bám chóp xoay) do tổn thương gây phức tạp hơn kém sau thay khớp vai bán phần. Đe khắc phục nhược điểm này, thay khớp vai đảo ngược có thể được chỉ định trong trường hợp gãy phức tạp đầu trên xương cánh tay ở bệnh nhân lớn tuổi.

2.1.3 Thay lại khớp vai

Trong thay lại khớp vai, khớp vai đảo ngược cũng có thể được sử dụng ở những trường hợp có tổn thương chóp xoay không thế phục hồi, mất hoặc không liền mấu động lớn, mất vững khớp vai.

2.1.4 Ung thư đầu trên xương cánh tay

Đối với phẫu thuật bảo tồn chi trong ung thư đầu trên xương cánh tay, chóp xoay có thế bị cắt bỏ đế đảm bảo diện cắt lành tính, ơ những trường hợp này, thay khớp vai đảo ngược có thể được lựa chọn để cải thiện chức năng khớp vai sau mo so với khớp vai toàn phần kiểu giải phẫu.

2.2 Chống chỉ định

  • Nhiễm trùng tại chỗ hoặc toàn thân
  • Liệt cơ Delta
  • Chất lượng xương kém (chỏm xương cánh tay và ổ chảo)
  • Tiêu xương ổ chảo
  • Cứng khớp vai

by

Tags:

Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *