Chẹn kênh canxi

Amlodipine và các chỉ định trên thực hành lâm sàng

Amlodipine là thuốc đầu tiên trong các DHP thế hệ thứ hai. Những ưu điểm chính của amlodipine là: khởi phát chậm và tác dụng kéo dài, thuốc có nhiều thử nghiệm lớn trong điều trị tăng huyết áp. Amlodipine gắn với cùng một vị trí trên kênh canxi (vị trí N) giống với các DHP khác, với sự liên kết và phân ly rất chậm, do đó khởi phát tác dụng và kết thúc chậm. Ngoài ra, thuốc cũng gắn với cùng vị trí tương tự như verapamil và diltiazem, mặc dù ở mức độ thấp hơn.

1. Các chỉ định của amlodipine

1.1 Tăng huyết áp

Nhiều thử nghiệm lớn cho thấy tính an toàn và hiệu quả của amlodipine trong điều trị THA. Liều khởi đầu phổ biến là 5 mg/24h, có thể tăng lên đến 10 mg/24h. Trong một thử nghiệm lớn về tăng huyết áp nhẹ ở nhóm tuổi trung niên theo dõi trên 4 năm, amlodipine 5mg/24h được dung nạp tốt nhất so với các thuốc chẹn alpha, thuốc chẹn beta, thuốc lợi tiểu và thuốc ức chế men chuyển.

Trong nghiên cứu ALLHAT, amlodipine có kết quả tương tự như các nhóm thuốc lợi tiểu và ức chế men chuyển trên kết cục chính (bệnh động mạch vành gây tử vong và không tử vong) nhưng tỷ lệ suy tim tăng nhẹ trong khi giảm tỷ lệ đái tháo đường mới mắc. Ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 có THA, nghiên cứu ALLHAT cho thấy amlodipine có hiệu quả tương đương với thuốc lợi tiểu trong giảm nguy cơ tim mạch. Trong nghiên cứu ASCOT, amlodipine kết hợp với thuốc ức chế men chuyển perindopril cho kết quả tốt hơn nhiều so với thuốc chẹn beta kết hợp với thuốc lợi tiểu. Đặc biệt, tất cả các biến cố tim mạch đều giảm kể cả suy tim, đái tháo đường mới mắc và tỷ lệ tử vong dẫn đến kết thúc sớm thử nghiệm.

Nghiên cứu ACCOMPLISH so sánh điều trị tăng huyết áp ban đầu bằng benazepril kết hợp amlodipine và benazepril kết hợp hydrochlorothiazide, đã bị chấm dứt sớm vì kết hợp ƯCMC – thuốc chẹn kênh canxi cho hiệu quả vượt trội so với ƯCMC – lợi tiểu. Cả tiêu chí chính và tiêu chí phụ đều giảm khoảng 20%. Sự kết hợp này cũng làm giảm tiến triển của bệnh thận.

1.2 Hội chứng động mạch vành mạn tính

Nhiều thử nghiệm cho thấy hiệu quả của amlodipine trong điều trị đau thắt ngực khi gắng sức, với tác dụng kéo dài trong 24h và thường dung nạp tốt hơn thuốc chẹn beta. Nghiên cứu CAMELOT sử dụng amlodipine trong 2 năm cho 663 bệnh nhân có tổn thương động mạch vành trên phim chụp mạch; amlodipine làm giảm 31% các biến cố tim mạch so với enalapril mặc dù mức giảm HA là tương đương nhau trong khi thể tích mảng xơ vữa và kích thước lòng mạch không thay đổi. Trong nghiên cứu PREVENT, sử dụng amlodipine cho bệnh nhân có bệnh động mạch vành mạn tính làm giảm biến cố sau 3 năm.

1.3 Thiếu máu cục bộ khi gắng sức (Đau thắt ngực không ổn định)

giảm hiệu quả hơn khi dùng amlodipine so với atenolol, trong khi đau thắt ngực không ổn định được giảm tốt hơn bởi atenolol và đối với cả hai tác dụng, sự kết hợp thuốc cho hiệu quả tốt nhất. Thiếu máu cục bộ khi gắng sức là cơ sở của hội chứng động mạch vành mạn. Sau khi cơn đau thắt ngực được giảm bớt bởi nitrat, phân suất tống máu cần 30 phút để hồi phục, đó là biểu hiện của tình trạng đờ cơ tim do thiếu máu. Có giả thuyết cho rằng quá tải canxi trong tế bào là cơ chế gây ra đờ cơ tim, do đó amlodipine làm giảm đáng kể tình trạng đờ cơ tim như vậy.

Đau thắt ngực do co thắt mạch vành trong cơn Prinzmetal, amlodipine 5 mg mỗi 24h làm giảm các triệu chứng và sự thay đổi ST.

2. Chống chỉ định, thận trọng và tác dụng không mong muốn.

Amlodipine có cùng chống chỉ định với các DHP khác. Thuốc chưa được thử nghiệm trong đau thắt ngực không ổn định, nhồi máu cơ tim cấp. Trong trường hợp suy tim, thuốc chẹn kênh canxi là một nhóm nên tránh nhưng có thể sử dụng amlodipine khi cần kiểm soát đau thắt ngực tốt hơn. Nên giảm liều nếu có bệnh gan.

Trong số các tác dụng không mong muốn, phù ngoại biên là hay gặp nhất, xảy ra ở khoảng 10% bệnh nhân ở liều 10 mg/24h. Ở phụ nữ hay gặp phù (15%) hơn so với nam giới (6%). Dấu hiệu chóng mặt 3- 4% và nóng bừng mặt 2- 3%. So với verapamil, phù hay gặp hơn nhưng đau đầu và táo bón ít hơn. So với giả dược, đau đầu không tăng hơn. Amlodipine cho chất lượng cuộc sống tốt hơn so với các thuốc khác trong nghiên cứu TOMH.

3.Tóm tắt về Amlodipine:

Amlodipine là một trong những thuốc khởi trị  điều trị tăng huyết áp bên cạnh các nhóm thuốc khác như ức chế men chuyển, chẹn thụ thể angiotensin, lợi tiểu thiazide.

Thời gian bán hủy rất dài, dung nạp tốt và không có tương tác thuốc (ngoại trừ: simvastatin liều cao) làm cho amlodipine trở thành một thuốc hạ huyết áp hiệu quả dùng một lần/24h, ưu điểm hơn với các thuốc hai lần hoặc ba lần mỗi 24h.

Tác dụng không mong muốn rất ít; nếu có thường là phù mắt cá chân. Thiếu máu cục bộ khi gắng sức được kiểm soát tốt hơn khi dùng amlodipine so với atenolol, và sự kết hợp hai thuốc thậm chí còn cho hiệu quả tốt hơn.

Nghiên cứu ASCOT trong tăng huyết áp đã cho thấy tác dụng bảo vệ tim mạch của amlodipine, do đó xua tan niềm tin rằng thuốc chẹn kênh canxi có một số tác động bất lợi.

 


Posted

in

,

by

Tags:

Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *