Thuốc chẹn beta giao cảm

Tổng quan thuốc chẹn beta giao cảm có gì mới?

Chẹn beta giao cảm (beta-adrenergic blockers) hay còn gọi là thuốc chẹn beta (beta blockers), là một nhóm thuốc hoạt động theo cơ chế kháng thụ thể giao cảm β (β-adrenergic).

1.Giới thiệu chung

Chẹn beta giao cảm (beta-adrenergic blockers) hay còn gọi là thuốc chẹn beta (beta blockers), là một nhóm thuốc hoạt động theo cơ chế kháng thụ thể giao cảm β (β-adrenergic). Thuốc chẹn beta lần đầu tiên được sử dụng trong thực tế lâm sàng là propranolol vào năm 1965, được phát minh bởi James Black, bác sĩ người Scotland đã đánh một bước tiến lớn trong điều trị nội khoa các bệnh lý tim mạch.

Sau hơn 50 năm phát triển, các thế hệ thuốc chẹn beta lần cuối đời với mức độ chọn lọc thu nhận ngày càng cao, cùng với các bằng chứng thuyết phục qua các thử nghiệm lâm sàng trên nhiều đối tượng bệnh lý tim mạch như suy tim, bệnh lý mạch vành, rối loạn nhịp tim… đã cho thấy vai trò to lớn và không thể thiếu thuốc chẹn beta trong thời kỳ nguyên tim mạch hiện đại.

2.Dược học của thuốc chẹn beta giao cảm

Trong hơn 30 loại chẹn beta được phát minh và phát triển cho đến nay, chỉ một số ít được ứng dụng trên thực tế điều trị lâm sàng. Hầu hết các loại thuốc đều được hấp thu tốt qua đường uống, với thời gian đầu tác dụng từ 1 – 3h.

Các thuốc chẹn beta khác nhau có mức độ hòa tan trong lipid khác nhau. Các thuốc hòa tan trong lipid như propranolol hay metoprolol chủ yếu chuyển hóa hóa ở gan, đồng thời các nhóm thuốc tan trong nước chủ yếu đào thải qua thận.

Một yếu tố có ảnh hưởng rất quan trọng đến dược động học của một loại thuốc, bao gồm cả thuốc chẹn beta, đó là tính tan trong lipid. Đặc điểm chung là các thuốc tan trong lipid (propranolol, metoprolol, carvedilol, timolol) bao gồm:

  • Được hấp thụ nhanh và hoàn toàn từ hệ thống tiêu hóa.
  • Được chuyển hóa qua gan.
  • Gắn mạnh với protein huyết tương.
  • Được phân phối rộng rãi cho các mô-đun và phần mềm khắp cơ thể.
  • Có thời gian bán ngắn.

Trong khi đó các chất tan trong nước và đào thải qua thận như atenolol, nadolol, sotalol, carteolol, acebutolol có các thuộc tính dược lý ngược.

Đặc tính gắn kết với protein huyết tương sẽ ảnh hưởng đến việc sử dụng thuốc trên bệnh nhân suy gan. Những thuốc gắn với protein huyết tương cao cần thận trọng đối với bệnh nhân suy gan và những thuốc gắn ít sẽ an toàn hơn.

3.Dược lực học

Về cơ bản, thụ thể beta giao cảm được chia làm ba loại:

3.1 Thụ thể beta 1:

Có mặt chủ yếu tại thời điểm.

3.2 Thụ thể beta 2:

có mặt tại các mạch máu, cơ trơn quản lý và cơ tim.

3.3 Thụ thể beta 3:

Có mặt tại các tế bào mỡ.

Tác dụng của thuốc chẹn beta phụ thuộc vào nồng độ thuốc, mức độ chẹn chọn bộ lọc thụ thể beta, hoạt tính giao cảm nội tại và tác dụng kèm theo.

3.3.1 Nồng độ thuốc:

Ở nhiệt độ thấp, thuốc chẹn beta ức chế các thụ thể ở các mức độ khác nhau. Một số thuốc tác động lên thụ thể beta 1 tương đương với thụ thể beta 2 (ví dụ: propranolol), trong khi đó một số thuốc ưu tiên hơn trên thụ thể beta 1 (ví dụ: nebivolol, metoprolol, bisoprolol).

3.3.2 Chọn trên thụ thể beta:

Dưới tác dụng chọn lọc ưu tiên thay thế tại thụ thể beta 1, các loại thuốc trong nhóm này tác động chủ yếu vào thời gian và ít gây ảnh hưởng lên cơ trơn che phủ, do đó làm giảm các tác dụng không mong muốn gây ra thắt lưng quản lý . Tuy nhiên, tính năng lọc này cũng giảm đi khi sử dụng thuốc ở mức cao. Hầu hết các loại thuốc chẹn beta sử dụng trên lâm sàng là các thuốc đối kháng “đơn thuần”, thuốc gắn vào các thụ thể beta và do đó ức chế hoạt động hóa thụ thể bởi các tác nhân kích thích.

3.3.3 Hoạt hóa thần kinh giao cảm nội tại:

Mặt khác, bên cạnh ứng dụng chẹn beta giao cảm, một số thuốc như pindolol hay acebutolol còn có tác dụng hoạt hóa thần kinh giao cảm nội tại (ISA – Intrinsic Sympathomimetic activity). Những nhóm thuốc này làm giảm nhịp tim và cung cấp thời gian ít hơn so với các thuốc không có ISA.

Một số nhóm thuốc chẹn beta thế hệ mới ngoài tác dụng chẹn beta giao cảm còn có các tác dụng dược lý khác như giãn mạch, chống oxy hóa…

3.4 Cơ chế hoạt động

Tất cả các thuốc chẹn beta đều có tác dụng đối kháng catecholamine khi hấp thụ thể beta, làm giảm tác dụng của catecholamine khi hấp thụ, giảm sản xuất cAMP, ức chế dòng canxi đi vào và giải phóng canxi thông qua lưới nội. sinh chất.

Những tác động này làm giảm co co cơ tim, giảm tần số thời gian làm giảm tính tự động của nút xoang, giảm dẫn truyền nhĩ thất

3.5 Tác dụng của thuốc chẹn beta trên tim mạch

Hiệu quả giảm tần số tim và giảm co bóp cơ tim được ứng dụng trong điều trị cơn đau thắt ngực làm giảm nhu cầu oxy cơ tim, trong khi đó tác dụng giảm tốc dẫn truyền qua nút nhĩ thất có tác dụng cắt cơn nhịp nhanh , kiểm soát tần số thất bại trong rung nhĩ.

Thuốc chẹn beta đóng vai trò quan trọng trong điều trị suy tim, nhờ tác dụng hạn chế sự hoạt động hóa quá mức thúc đẩy thần kinh giao cảm.

3.6 Tác dụng trên mạch vành và cơ tim:

Quá trình  dẫn đến giãn mạch vành thông qua thụ thể beta, đồng thời làm tăng nhịp tim và tăng co bóp cơ tim, dẫn đến tăng nhu cầu tiêu thụ oxy cơ tim. Thuốc chẹn beta tác động làm giảm tác dụng giãn mạch vành nhưng đồng thời làm giảm nhịp thời gian, kéo dài thời gian trung tâm dẫn đến tăng thời gian giãn mạch vành, giảm co bóp cơ tim, giảm nhu cầu tiêu thụ oxy cơ tim .

3.7 Tác dụng trên tuần hoàn hệ thống:

Hiệu quả hạ áp của thuốc chẹn beta giao cảm bao gồm tác động của nhiều cơ chế khác nhau.  Sau 24h, huyết áp hệ thống bắt đầu giảm dần theo tác dụng của giảm co bóp cơ tim, giảm nhịp tim. Mặt khác, cơ chế hạ huyết áp hệ thống có thể còn liên quan đến các cơ chế khác:

  • Ức chế thụ thể beta tại các nơ-ron thần kinh làm giảm giải phóng norepinephrine, dẫn đến ức chế co mạch.
  • Tác động lên thần kinh trung ương làm hạ huyết áp.
  • Hoạt động của hệ thống renin – angiotensin (RAS) do beta có thể được coi là trung gian giải phóng renin.
  • Tác dụng chống rối loạn nhịp: Chẹn beta giao cảm có nhiều cơ chế chống rối loạn nhịp.

Thuốc ức chế catecholamine do đó ức chế rối loạn nhịp thông qua cơ chế tăng quá mức catecholamine (ví dụ: trong bệnh lý ứ máu cơ tim cấp, suy tim, u triều thượng thận, rối loạn lo âu, rối loạn nhịp liên) hoặc quá nhạy cảm với catecholamine.

Mặt khác, thuốc còn làm giảm tính tự động của các ổ ngoại vị, giảm tần suất của các ổ ngoại tâm thu nhĩ và thất bại, có tác dụng dự kiến ​​phòng tái phát nhịp điệu kịch phát trên thất bại.

Thêm vào đó, thuốc chẹn beta ức chế dẫn truyền qua nút nhĩ thất, có thể cắt vòng quay trở lại trong cơn  nhịp nhanh kịch phát trên thất cũng như kiểm soát tần số  trong cơn rung nhĩ, cuồng nhĩ, nhanh nhĩ.

 


Posted

in

,

by

Tags:

Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *