Viêm màng não mủ là tình trạng nhiễm khuẩn màng não do các tác nhân gây bệnh có khả năng sinh mủ (chủ yếu là một số loại vi khuẩn) xâm nhập vào màng não gây nên. Là một trong những bệnh cấp cứu nguy hiểm, thường gặp ở trẻ em, nhiều nhất là ở lứa tuổi dưới 3 tuổi, tỷ lệ tử vong và di chứng khá cao. Vì vậy cần chẩn đoán và phát hiện sớm bệnh để điều trị kịp thời.
1. Chẩn đoán xác định viêm màng não mủ
1.1. Biểu hiện lâm sàng viêm màng não mủ
– Sốt, hội chứng nhiễm trùng: Thường sốt cao đột ngột, có thể kèm viêm long đường hô hấp trên, quấy khóc hoặc li bì, mệt mỏi, ăn hoặc bú kém, da xanh tái.
– Hội chứng màng não:
Các dấu hiệu cơ năng: Nôn tự nhiên và buồn nôn, đau đầu (ở trẻ nhỏ thường quấy khóc hoặc khóc thét từng cơn), táo bón (ở trẻ nhỏ thƣờng gặp tiêu chảy), có thể có biểu hiện sợ ánh sáng, nằm tư thế cò súng.
Các dấu hiệu thực thể: Gáy cứng (ở trẻ nhỏ có thể gặp dấu hiệu cổ mềm), dấu hiệu Kernig, Brudzinsky, vạch màng não… dương tính.
Trẻ nhỏ còn thóp thường có dấu hiệu thóp trước phồng hoặc căng, li bì, mắt nhìn vô cảm.
– Các biểu hiện khác
+ Co giật.
+ Liệt khu trú.
+ Rối loạn tri giác – hôn mê.
+ Ban xuất huyết hoại tử hình sao (Gặp trong nhiễm Não mô cầu).
+ Các dấu hiệu của shock nhiễm khuẩn.
Riêng ở trẻ sơ sinh bệnh thường xảy ra trên trẻ đẻ non, nhiễm trùng ối, ngạt sau đẻ. Hội chứng nhiễm trùng thường không rõ rệt, có thể không sốt, thậm chí còn hạ thân nhiệt, hội chứng màng não cũng không đầy đủ hoặc kín đáo. Trẻ thường bỏ bú, nôn trớ, thở rên, thở không đều hoặc có cơn ngừng thở, thóp phồng hoặc căng nhẹ, bụng chướng, tiêu chảy, giảm trương lực cơ, mất các phản xạ sinh lý của trẻ sơ sinh…và có thể co giật.
1.2. Biểu hiện cận lâm sàng viêm màng não mủ
– Quan trọng nhất và có tính chất quyết định cho chẩn đoán là xét nghiệm dịch não tuỷ. Cần tiến hành chọc dịch não tuỷ sớm ngay khi khám xét lâm sàng có nghi ngờ viêm màng não mủ tại cơ sở y tế từ tuyến huyện trở lên (tại khe liên đốt L4-L5 vùng thắt lưng với cỡ kim chuyên dụng thích hợp theo lứa tuổi – trẻ dưới 1 tuổi dùng kim số 4, số 6. Chú ý các chống chỉ định như hội chứng tăng áp lực nội sọ nặng có nguy cơ gây tụt kẹt thuỳ hạnh nhân tiểu não, tình trạng shock nặng, suy hô hấp nặng chưa ổn định, viêm tấy hoặc ổ nhiễm khuẩn tại vị trí chọc dò…).
Xác định chẩn đoán khi dịch não tuỷ có các biểu hiện sau:
– Dịch não tuỷ đục như nước dừa non, nước vo gạo hoặc như mủ.
– Soi hoặc cấy dịch não tuỷ xác định được vi khuẩn gây bệnh.
– Xét nghiệm sinh hoá dịch não tuỷ thấy nồng độ Protein cao (thường trên 1 gr/ lít), Glucose giảm dưới 1/2 đường máu, thử cùng lúc – có khi chỉ còn vết; tế bào tăng cao – từ vài trăm tới hàng nghìn tế bào/mm3, trong đó bạch cầu đa nhân trung tính chiếm ưu thế.
– Các xét nghiệm khác:
+ Công thức máu thường thấy bạch cầu tăng cao, tỷ lệ bạch cầu đa nhân trung tính chiếm ưu thế; ở trẻ nhỏ thường giảm nồng độ huyết sắc tố (thiếu máu).
+ Cấy máu và cấy dịch tỵ hầu, dịch hút tại ổ xuất huyết hoại tử… có thể xác định được vi khuẩn gây bệnh.
Ngoài ra có thể chụp cắt lớp vi tính sọ não, siêu âm qua thóp… để xác định các biến chứng có thể gặp; các xét nghiệm dịch não tuỷ giúp cho chẩn đoán phân biệt những trường hợp viêm màng não không điển hình (thường do điều trị kháng sinh không đúng trước đó) như PCR, ELISA đặc hiệu, nồng độ LDH, Acid Lactic… và các xét nghiệm giúp cho điều trị toàn diện như điện giải đồ, khí máu…
2. Chẩn đoán phân biệt
2.1. Chẩn đoán phân biệt trước khi chọc dò dịch não tuỷ
Trên thực tế cần phân biệt với sốt cao co giật, động kinh, các viêm màng não do căn nguyên virus, lao… Đặc biệt ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ cần chú ý phân biệt với các xuất huyết não – màng não, tình trạng nhiễm khuẩn nặng như viêm phế quản phổi nặng, nhiễm khuẩn huyết. Trong những trường hợp chưa phân biệt được hay có nghi ngờ viêm màng não mủ, cần chọc dò dịch não tuỷ để xác định chẩn đoán.
2.2. Chẩn đoán phân biệt khi đã chọc dò tuỷ sống.
Hầu hết các trường hợp xét nghiệm dịch não tuỷ điển hình cho phép chẩn đoán xác định hay loại trừ chẩn đoán viêm màng não mủ. Tuy nhiên, do việc lạm dụng kháng sinh, tự điều trị kháng sinh không đúng khi chưa có chẩn đoán đã gây khó khăn cho việc xác định viêm màng não mủ vì các biểu hiện xét nghiệm dịch não tuỷ không còn điển hình nữa. Cụ thể như sau:
– Nếu dịch não tuỷ trong hoặc không rõ đục, nồng độ Protein tăng, số lượng tế bào tăng từ vài chục đến hàng trăm: Cần chẩn đoán phân biệt với viêm màng não do virus và lao màng não.
– Nếu dịch não tuỷ vàng, ánh vàng: Cần chẩn đoán phân biệt với lao màng não hoặc xuất huyết não-màng não cũ.
+ Với viêm màng não (hoặc viêm não-màng não) do virus:
Dịch não tuỷ thường trong, Protein tăng ít (thường dưới 1gr/lít), số lượng bạch cầu trong dịch não tuỷ thường thấp hơn (vài chục đến một vài trăm bạch cầu/ mm3), bạch cầu lympho và mono chiếm ưu thế. Cần chú ý tới các yếu tố dịch tễ và làm các xét nghiệm đặc hiệu như ELISA hoặc PCR để xác định căn nguyên virus.
+ Với lao màng não:
Dịch não tuỷ trong hoặc vàng chanh, Protein tăng trên 1gr/l, số lượng tế bào thường vài trăm/mm3, nhưng chủ yếu là lymphocyt. Cần tìm nguồn lây nhiễm, làm phản ứng Mantoux, chụp phổi và các xét nghiệm đặc hiệu để xác định lao.
+ Với xuất huyết não – màng não cũ:
Thường dịch não tuỷ vàng, Protein tăng nhưng số lượng tế bào trong dịch não tuỷ ít hoặc không có. Cần xem xét kỹ các biểu hiện lâm sàng, các biến đổi về xét nghiệm huyết học và nếu cần thì chụp CT scan sọ não để xác định chẩn đoán.
Viêm màng não là một bệnh nguy hiểm, triệu chứng khởi phát một cách cấp tính ồ ạt hoặc từ từ rất khó xác định và dễ nhầm lẫn với nhiều bệnh nhiễm khuẩn khác. Vì vậy cần thăm khám thật kĩ càng kết hợp làm các cận lâm sàng để chẩn đoán sớm bệnh.
Nguồn: Bộ y tế
Leave a Reply