Bệnh lý tuỷ lão nha – Chẩn đoán và Kế hoạch điều trị.

Bài viết này cung cấp cho Nha sĩ một cái nhìn sâu hơn về phương pháp chẩn đoán, kế hoạch điều trị của nhóm bệnh lý tuỷ lão nha, điều này giúp ích trong quá trình thực hành lâm sàng, hạn chế sai sót và tăng kết quả thành công trong điều trị bệnh nhân.

1. Chẩn đoán bệnh lý tuỷ lão nha

Hỏi bệnh: Bệnh nhân phải được khuyến khích bày tỏ những vấn đề bệnh tật của họ. Qua đó chúng ta thu thập được triệu chứng cơ năng và đánh giá được hiểu biết của họ về nha khoa cũng như khả năng giao tiếp của bệnh nhân. Tuy nhiên, điều này có thể bị hạn chế bởi những vấn đề thị lực, thỉnh lực và tình trạng tâm thần.

– Bệnh sử: Toàn thân: Các bệnh có liên quan tới quá trình điều trị phải được thảo luận kỹ lưỡng và giải thích cho bệnh nhân tỉnh trạng sức khỏe có thể ảnh hưởng tới chẩn đoán, kế hoạch điều trị và kết quả điều trị.

– Răng miệng: Xem xét và hỏi kỳ những bệnh răng miệng trước đây.

Thăm khám:

– Cơ năng: hỏi về dấu hiệu và triệu chứng phổ biến. Nhiều bệnh nhân cao tuổi chịu dựng nên không bày tỏ những triệu chứng khó chịu.

– Dấu hiệu đau của viêm cấp tính thường không dữ dội.

– Sự vắng mặt hay thiếu các triệu chứng chính thường xảy ra ở NCT. Vì vậy khi nghỉ ngờ có tình trạng bệnh lý cần làm test để tìm ra các dấu hiệu hay triệu chứng quan trọng khác.

Thử nghiệm:

– Thử tuỷ: Tuy trở nên ít đáp ứng với kích thích theo tuổi. Vì vậy khi thử nên thử chậm và cẩn thận với việc sử dụng nhiều kích thích khác nhau.

– Thông thường một răng mà tuỷ sống không đáp ứng với test này nhưng lại đáp ứng với test khác. Kết quả của test cần kết hợp với Xquang. Không nên thử nghiệm điện với những bệnh nhân mang máy tạo nhịp tim. Thường xảy ra tình trạng âm tính giả (tuỷ sống nhưng không đáp ứng),

– Gõ răng là kiểm tra sự viêm quanh chóp nhưng không đặc biệt có ích trừ khi bệnh nhân có dấu hiệu đau.

– Gõ từng răng một để đánh giá mức độ của phản ứng cuống.

– Xquang: Giúp cho việc xác định kích thước buồng tuỷ, ống tuỷ, tình trạng canxi hoá, độ sâu liên quan của lỗ sâu và phần phục hình.

Chẩn đoán phân biệt: Có nhiều loại bệnh lý khác nhau trong đó có nhiều bệnh phổ biến hơn ở người lớn tuổi, sự thương tổn thường nhầm lẫn với bệnh lý tuỷ là thương tổn vùng quanh răng. Những thương tổn có thể nhầm lẫn với bệnh lý tuỷ còn bao gồm:

– Viêm xoang.

– Co thắt cơ.

– Đau đầu.

– Thoái hoá khớp thái dương hàm.

– Viêm thần kinh, đau thần kinh.

Tỷ lệ những bệnh này tăng lên theo tuổi, đặc biệt là ở những bệnh nhân có những bệnh lý đặc biệt.

2. Kế hoạch điều trị và phân loại bệnh nhân

Kế hoạch điều trị ban đầu thường phải biến đổi trong suốt quá trình điều trị bởi vì các yếu tố không ngờ tới. Ví dụ: Điều trị tuỷ có thể thất bại do không thể xác định vị trí ống tuỷ. Những khả năng này nên được giải thích cho bệnh nhân trước và phối hợp với các chuyên khoa khác trước khi tiến hành điều trị.

– Tiên lượng: Mặc dù mô quanh răng sẽ liền ở NCT cũng như ở bệnh nhân trẻ tuổi, có rất nhiều yếu tố làm giảm tỷ lệ thành công và làm phức tạp quá trình điều trị cũng như ảnh hưởng tới kết quả cuối cùng. Một răng được phục hình quá nhiều có thể có nhiều đường rõ theo chiều dọc, răng nghiêng và xoay rất khó làm cho thẳng lại và vì vậy càng khó khăn cho việc làm sạch, tạo hình và hàn kín ống tuỷ.

– Mỗi bệnh nhân nên được đánh giá trước hoặc sau điều trị. Những đánh giá trước điều trị là kết quả tính trước và những đánh giá sau điều trị để kiểm lại những gì xảy ra khi thay đổi trong suốt quá trình điều trị. Nhiều răng bị tổn thương nặng không thể điều trị đành phải nhổ bỏ.

– Số lần hẹn: Điều trị một lần hay nhiều lần luôn là một chủ đề để tranh luận. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng không có khác biệt về tiên lượng và kết quả giữa điều trị một lần và nhiều lần. Tuy nhiên, với trường hợp tuỷ hoại tử, điều trị nhiều lần và sử dụng Ca(OH)2 như chất hàn ống tuỷ có thể đẩy nhanh quá trình liền thương và làm kết quả điều trị lâu dài tốt hơn.

– Điều trị một lần có nhiều lợi ích ở NCT vi có thể bệnh nhân cần người khác giúp đỡ trong việc di chuyển, trả lời hay đứng lên ngồi xuống. Với những bệnh nhân có đòi hỏi đặc biệt như vị trí đặc biệt của ghế ngồi, cần nâng đỡ đầu, cổ hay chân tay… lại nên hẹn thành nhiều lần với thời gian làm việc ngắn.

– Điều trị tuỷ:

+ Thời gian: Các lần hẹn có thời gian trung bình hoặc dài hơn.

+ Vô cảm: Ở bệnh nhân cao tuổi thì ngưỡng chịu đau cao hơn. Chỉ cần gây tê đối với trường hợp tuỷ sống còn các trường hợp tuỷ hoại tử, hẹn hàn răng hay điều trị lại thì không cần. NCT có xu hướng giảm nhạy cảm và thích các phương pháp điều trị không cần gây tê hơn. Mặc dù không có sự khác nhau về ảnh hưởng của các dung dịch gây tê nhưng với trường hợp có bệnh toàn thân nghiêm trọng thì không nên sử dụng chất co mạch.
+ Gây tê tuỷ, dây chằng quanh rãnh hay mảng xương bổ sung hiệu quả nếu gây tê ban đầu không đủ hiệu quả. Những trường hợp có bệnh tim mạch không nên sử dụng thuốc có chất co mạch đặc biệt là kỹ thuật tiêm màng xương và dây chằng quanh răng. Thời gian vô cảm sẽ ngắn lại nếu không dùng chất co mạch nên có thể cần gây tê thêm trong quá trình điều trị.

3. Phương pháp điều trị bệnh lý tuỷ lão nha

* Cô lập

– Việc cách ly răng khó khăn với những lỗ sâu dưới lợi. Nên đặt đê cao su. Cách ly tốt sẽ giảm nhiễm trùng nước bọt vào tuỷ và những dị vật rơi vào miệng.

– Tất cả những phục hình như chụp tạm, band chỉnh nha hay chất hàn tạm nên được lấy ra toàn bộ trước khi cách ly.

* Chuẩn bị đường vào:

– Một đường vào tốt để có thể xác định vị trí và sắp xếp ống tuỷ là một thách thức ở NCT do giải phẫu bên trong.

– Chụp phim rất có tác dụng nên thực hiện mở rộng hơn nếu đường vào quả nhỏ. Việc mở rộng là hữu ích ngay cả khi sử dụng kính phóng đại hay dụng cụ hỗ trợ nhìn khác.

– Phần răng phía trên (là kết quả của sâu răng hay phục hình) có phần thân làm việc ngắn đòi hỏi chuẩn bị đường vào nông hơn. Khoảng cách từ mặt nhai đến trần buồng tủy nên được đo trên phim chụp.

– Xác định miệng các ống tuỷ thưởng gây mệt mỏi và thất vọng cho cả nha sĩ và bệnh nhân nên tốt nhất là hẹn bệnh nhân quay lại vào lần sau để xác định các ống tuỷ. Đó cũng là thời gian để cân nhắc phương pháp điều trị khác như phẫu thuật.

* Chiều dài làm việc:

– Có vài điểm khác biệt do lỗ apex thay đổi rất nhiều so với người trẻ và sự giảm đường kính của chân ống tuỷ, do vậy rất khó khăn trong việc đánh giá chiều dài làm việc.

– Dù bất cứ lứa tuổi nào thì vật liệu và dụng cụ phải sát khít tối đa với ống tuỷ. Chiều dài làm việc của phục hình giảm 2mm so với chiều dài đo được trên phim. Trường hợp ống tuỷ tắc không thể thông thì nên xác định ngắn thêm nữa. Nên sử dụng máy định vị lỗ apex đặc biệt trong trường hợp đánh giá trên phim gặp khó khăn.

* Làm sạch và tạo hình:

– Một thách thức là ống tuỷ quá nhỏ đòi hỏi thời gian và công sức để làm rộng. Có thể sử dụng chất bôi trơn để hoàn thiện và chuẩn bị cho những ống tuỷ quá nhỏ.

– Nên sử dụng file nhỏ để làm thuận tiện quá trình nong rộng đồng thời tránh việc kẹt hay gay dung cu.

– Việc tạo hình ống tuỷ được tiến hành theo các nguyên tắc cơ bản thông thường.

* Trám bít ống tuỷ: Không có phương pháp nào được cho là tốt hơn dù cả hai phương pháp trám bít gutta nóng và nguội đều được sử dụng nhiều nhất.

4. Ảnh hưởng của phục hình đối với bệnh lý tuỷ lão nha

– Những phục hình sâu và rộng sẽ rất khó khăn cho điều trị tuỷ. Răng NCT có thể được làm chụp. Trường hợp có làm chụp thì cần đánh giá hai vấn đề:
(1) Khả năng lưu giữ/thành phần của chụp.
(2) Sự cản trở lối vào và giảm phẫu trường bên trong.

– Thường gặp chụp sứ kim loại hơn chụp kim loại toàn bộ. Khoang mở tuy sứ có thể nứt và rạn. Có thể hạn chế bằng cách cắt thật chậm và dùng nhiều nước. Không nên tháo bỏ phần kim loại sau khi mở tuỷ để đảm bảo việc ổn định hình dạng khi đi vào cũng như hàn kín tuỷ. – Lỗ mở qua chụp sứ hoặc vàng có thể được hàn vĩnh viễn bằng amalgam, còn chụp
không kim loại ở phía trước thì hàn bằng composite.

5. Điều trị lại

Ở NCT thường gặp nhiều khó khăn khi điều trị, vì vậy việc điều trị lại là tương đối phổ biến. Dù lứa tuổi nào thì việc điều trị lại cũng rất phức tạp và phải thực hiện theo nguyên nhân. Phương pháp điều trị và kết quả là tương đương ở cả người già và người trẻ.

6. Phẫu thuật trong bệnh lý tuỷ lão nha

Chỉ định phẫu thuật nội nha:
– Chích rạch dẫn lưu.
– Phẫu thuật quanh cuống.
– Cắt chân răng.
– Cắm lại răng chủ động.

Tỷ lệ của hầu hết các thủ thuật này tăng dần theo tuổi. Ông tuỷ hẹp không thể nong rộng, tắc ống tuỷ là những chuyện sẽ gặp nhiều hơn theo tuổi tác. Việc xuyên thủng khi tim đường vào hoặc trong lúc chuẩn bị, quá cuống hay gãy dụng cụ liên quan đến vấn để phục hình và giải phẫu.

Điều trị phẫu thuật với NCT luôn kèm theo nguy cơ cho sức khỏe toàn thân, do đó chỉ định dè dặt chứ không rộng rãi như ở người trẻ.

Nguồn: Lão nha – NXB Giáo dục Việt Nam


Posted

in

,

by

Tags:

Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *